PHAN LỆ DUNG
Ảnh: tư liệu SH
Tháng ba đi rồi
Mùa xuân ngã xuống vai người đàn ông tóc đã đổi màu
chiếc áo nâu loay hoay trong gió
con giả đồng ngước mặt đi về phía đồi thông
sau lưng cỏ khô và gió
đầu đường kia con bìm bịp nhặt lá ngô đồng
đôi cánh bùi ngùi thả buổi chiều xuống bến
ở đó những chiếc lá và hàng cây im lìm
hôm ấy người đi và không ngoái lại
một chiếc xe màu tro chở thương nhớ qua cầu
thời gian mang theo cơn mưa và mối tình xa vắng
bên sông
cánh hoa hồng điệp
đẹp và buồn
ôi, chưa hết mùa hoa mưng
mà nắng hạc đã rơi nhiều
đêm qua trên bụi bông trang trước ngõ
gió thổi rì rào
ngỡ bước chân quen
Sao không về
như đã hẹn
chiều nay bên khung cửa
đường cỏ may vô tình nắng đổ
con bướm ngà thiếu phụ ngủ buồn trên lá sen
Gió thổi vàng khóm hoa nàng hương ngoài sông lá
trên mái nhà xóm Ngự
tháng ba ngậm ngùi
vời vợi trời bên kia.
Biết bao giờ gặp lại
Loanh quanh
tìm mãi
người đã đi rồi
sao không đem hạt mưa cùng ra ngoài ấy
để đông về đỡ nhớ thương
mùa thu đi
không biết đến tận phương nào
trên cành vài chú chim sẻ non đang hót
tiếng chim bao giờ cũng du dương lưu luyến
sao chiều nay
bỗng tắt nửa chừng
có phải bởi mùa thu quên lời hẹn
hay đã bỏ quên
điều bí mật dưới cỏ may
Cuộc tình chơi vơi
tưởng chừng như chưa từng có giây phút cầm tay
úp mặt vào vai áo
những con đường những đồi cỏ lau ngơ ngẩn
núi Ngự hoang buồn
Cuộc tình
đi qua
mỗi ngày tôi nhớ
hoa vàng năm ấy vừa đến trên ngọn lau
mắt anh nhuốm màu xa
hồn nhiên như cánh buồm
khát vọng
giấc mơ tôi quấn quýt
vui như hội trăng rằm
anh hát bài ca xóm nghèo nắng nhạt
ngoài trời gió nhẹ
hương lúa bay lên cây
Hỡi ơi,
nói sao cho vừa
tình xuân năm ấy
Chừ, mộng đã tan
cơn mưa chiều cũng hùa theo lũ bằng lăng xuống núi
chiếc lá vàng rơi nơi cuối con đường
Tình như đám mây bềnh bồng
một sớm mai đi qua mái nhà
như còn như mất
như có như không
như ngôi giáo đường chiều mưa buồn tẻ
mất cả tiếng chuông màu hồng lấp lánh sau hàng liễu
mất cả hoàng hôn
(TCSH425/07-2024)
Trên bầu trời, một vì sao đỏ chóiRót ánh sáng vào tháng ngày hấp hốiMáu sao rơiGiọt lịm lưng thềmCây nến tim tôi bùng cháy...
Nguyễn Sĩ Cứ - Võ Thị Hồng Tơ - Hoàng Cầm - Đào Duy Anh - Hoàng Ly Thạch Thảo - Võ Văn Luyến - Phạm Duy Tân
Tên khai sinh: Vương Oanh NhiSinh năm 1947 tại Hải Phòng.Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam .Học viên khoá IV Trường viết văn Nguyễn DuTác phẩm chính: + Lối nhỏ (1988) + Bài mẫu giáo sáng thế(1993)
CHÂU NHONăm 1968 tại mặt trận biên giới Việt - Lào, trung đội chúng tôi sau 3 ngày quần nhau với địch, 3 đồng chí hy sinh và trung đội trưởng bị thương nặng. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, đêm đó trung đội trưởng đã “nói chuyện với người yêu” trong cơn mê sảng. Xúc động trước tình cảm đó, tôi đã chuyển lời của người liệt sĩ thành bài thơ gửi về cho người yêu của anh ở hậu phương là cô Lê Thị Ánh, giáo viên cấp I ở một bản thuộc huyện Quế Phong, Nghệ An.
Hà Duyên - Nguyễn Thụy Kha - Nguyễn Thanh Văn - Nguyễn Văn Quang - Phạm Xuân Dũng - Lê Tuấn Lộc - Hồng Thị Vinh
Phạm Tấn Hầu - Lê Ngã Lễ - Lương Ngọc An - Lê Bá Thự - Phạm Thị Anh Nga - Đoàn Mạnh Phương - Trịnh Văn - Nhất Lâm - Hoàng Lê Ân.
NGUYỄN VĂN DINHCâu thơ BácThuở chăn đơn Bác đắp trong hangỐc suối, cơm ngô, nõn chuối ngànThơ Người vẫn viết cho ta đọc"Cuộc đời cách mạng thật là sang".
Nguyễn Trọng Tạo - Diệp Minh Luyện - Nguyễn Việt Tư - Lê Viết Xuân - Trần Lan Vinh - Mai Văn Phấn
Trương Đăng Dung - Văn Công Hùng - Nguyễn Thụy Kha - Văn Công Toàn - Vĩnh Nguyên - Phan Tường Hy
Vũ Thị Huyền - Công Nam - Nguyễn Cảnh Tuấn - Đặng Hiển - Trần Đôn - Nguyễn Văn Hùng - Nguyễn Thị Thái
LTS: Binh đoàn Hương Giang thành lập ngày 17.4.1974, mang tên dòng sông thơ mộng. Sau khi giải phóng Huế, Binh đoàn tham gia chiến dịch thống nhất Tổ quốc, tiến thẳng vào Dinh Độc Lập ngày 30.4.1975. Sống lại những ngày tháng oai hùng đó, Nguyễn Trọng Bính, một sỹ quan của Binh đoàn đã viết trường ca “Nhật ký dòng sông” năm 2008. Tác phẩm này vừa được Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam xếp loại xuất sắc trong đợt sơ kết Cuộc vận động sáng tác tiểu thuyết, trường ca về đề tài Chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân 2006 - 2008. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu cùng bạn đọc một trong số 11 chương của trường ca này.
CAO XUÂN THÁISinh năm: 1948 - Tại Vương quốc Thái LanVề nước năm 1960Quê quán: Hoa Lư - Ninh BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt NamPhó Chủ tịch Hội VHNT Hà Giang - Phó Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Hà Giang.
Nguyễn Đông Nhật - Chử Văn Long - Lê Hoàng Anh - Trịnh Lữ - Đào Trung Việt - Nguyễn Trần Thái - Nguyễn Thị Anh Đào - Nguyễn Loan - Nguyễn Văn Quang
Hải Trung - Văn Cầm Hải - Ngô Tự Lập - Nguyễn Tấn On - Phan Trung Thành - Trần Thị Thu Huề
Lê Ngọc Thuận - Từ Dạ Thảo - Đặng Hùng Thường - Tuệ Lam - Hoàng Thị Thiều Anh - Trần Tịnh Yên - Nguyễn Hoa - Nguyễn Thị Tân Hoa - Đỗ Văn Khoái - Nguyễn Thụy Kha
Hữu Thỉnh - Lưu Ly - Đặng Nguyệt Anh - Sơn Thu - Trịnh Thanh Sơn - Nguyễn Xuân Sang - Văn Công Toàn - Nguyễn Ngọc Hưng - Nguyễn Thị Ngọc Hà - Nguyễn Thiền Nghi - Nguyễn Mẫn Cán - Lê Ngã Lễ - Mai Văn Hoan - Xuân Tùng - Lê Thị Mây - Lê Viết Xuân - Ngô Minh - Quang Huy - Thái Doãn Long - Hà Minh Đức - Sơn Đức - Tôn Nữ Thu Thuỷ - Lê Khánh Mai - Bùi Minh Quốc - Ngô Đức Tiến - Trương Quân - Trương Nam Hương - Đoàn Mạnh Phương - Nguyễn Sĩ Cứ - Thuý Nga - Lê Huy Quang - Hồ Thế Hà - Phạm Đình Ân - Trần Tâm - Hoàng Xuân Thảo
Thục Linh - Ngân Vịnh - Nguyễn Ngọc Phú - Hoàng Bình Trọng - Tôn Phong
Sâu tưởngtrong sâu tưởng...ta có phải là mìnhhay tái bản cuộc đời nào đómà bằng lặng một đêm chưa thểphiên bản bốn mùa trong gió cơ man...
Thong thả cho quả chín câyCho mây ngũ sắc về đây hội mùa…
...Ngoài kia mưaThầm thĩ hát trên cây lan hồ điệpLoài hoa nở hai bông một lầnTôi khóc...