Chủ tịch Hồ Chí Minh với những lời tiên tri lịch sử

15:01 15/12/2009
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

Ảnh: phusaonline.free.fr

Hai quốc gia có những điểm giống và cũng rất khác nhau lại cách xa nhau nửa vòng trái đất. Đó là Việt Nam và Mỹ. Hai con người, mà một người chúng ta ai cũng biết - Chủ tịch Hồ Chí Minh và người kia là Luật sư Tô-mát-Giép-pơ-sơn (Thomas Jefferson) (*). Nhưng hiếm có sự ngẫu nhiên nào lại trùng hợp đẹp đẽ, như cuộc hẹn lịch sử tiên tri, giữa một con người mà cả cuộc đời gắn bó với dân tộc và thời đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà ít người trong chúng ta có thể chưa hiểu rõ.

- "VIỆT NAM ĐỘC LẬP... 1945"

Tôi tình cờ đọc cuốn "Những chặng đường lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Nhà xuất bản Văn học 1977, trong đó có một định đề để chúng ta trao đổi "Thực tiễn và thời gian sẽ là kiểm nghiệm nghiêm khắc những điều tiên tri đó thuộc về những thiên tài, có điều lịch sử đã diễn ra đúng như dự đoán của Người".

Hẳn chúng ta ai cũng biết cuốn "Lịch sử nước ta" mở đầu có hai câu "Dân ta phải biết sử ta; Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" do chính tay Bác Hồ viết, Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản tháng 2/1992 ở căn cứ Cao Bằng. Cuốn sách bằng thơ dài 210 câu theo thể thơ lục bát, dễ hiểu, dễ nhớ đó dùng làm tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Điều đặc biệt là: Tuy giữa lúc cách mạng còn khó khăn, nhưng trong niên biểu "Những năm quan trọng" ở cuối cuốn sách, Bác Hồ đã tiên đoán "Việt Nam độc lập... 1945".

Theo đồng chí Võ Nguyên Giáp - một trong những cộng sự gần gũi thân cận với Bác - người duy nhất đặt vấn đề về sự kiện Bác Hồ tiên đoán ngày cách mạng thành công kể lại: "Mùa xuân 1941 - Bác Hồ đã tiên đoán ngày cách mạng thành công 45 - sự nghiệp hoàn thành". Bác không hề nhắc lại câu thơ này. Từ đó đến nay, bị lôi cuốn vào công việc, anh em chúng tôi cũng chưa có dịp hỏi lại Bác: Vì sao Bác có một sự tiên đoán như vậy, điều đó đã trở thành một trong những điều ta chưa hiểu hết được về con người và cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại gần 60 năm của Bác" (1).

Đầu năm 1945, khi còn ở Tân Trào, Bác Hồ đã nhờ trung úy Phe Lan có biệt danh là Giôn trong nhóm "Chim Họa Mi" của quân Đồng Minh chống phát xít... điện về Côn Minh (Trung Quốc) xin một bản sao tuyên ngôn độc lập Mỹ để tham khảo và chuẩn bị cho các tuyên ngôn thông điệp sau tổng khởi nghĩa tháng 8. 1945. Chúng ta còn nhớ câu nói của Bác Hồ trong những ngày. Người ốm nặng tại lán Nà lừa trước ngày tổng khởi nghĩa. "Lúc này là thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập", (2). Bác Hồ của chúng ta từ lời nói, việc làm, quyết tâm và hành động kiên quyết đều đồng nhất như thế đó!

- Đế quốc Mỹ sẽ xâm lược Việt Nam và nhân dân Việt Nam đánh thắng Mỹ kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ trên không.

"ĐÁNH CHO MỸ CÚT..."

Trong mỗi trái tim của người Việt Nam hẳn không quên bài thơ chúc tết mùa xuân Kỷ Dậu 1969 - năm cuối cùng trước lúc Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta có câu "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào". Câu thơ đã đi vào lịch sử như lời thúc dục, quyết tâm của cả dân tộc và chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tôi cố lục tìm trong tất cả di cảo của Người mà mình có được và thật bàng hoàng xúc động, không rõ vì sao Bác Hồ của chúng ta có linh cảm tài tình đến thế. Bởi lịch sử vốn có những ngẫu nhiên và cũng vô vàn biến cố bất ngờ kể cả vào giờ phút chót của sự thắng lợi, nhưng ở Bác Hồ, lịch sử đã diễn ra như lối ước hẹn trước! "... Đánh cho Mỹ cút", không phải đến khi Mỹ đổ quân vào miên Nam 1964 Người mới nói đến chuyện đánh Mỹ. Mà ngay sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ vừa kết thúc; hội nghị Giơ-ne-vơ (Genève) mới bắt đầu họp, Hồ Chủ tịch đã khẳng định". Bây giờ Pháp thì đang nói chuyện với ta, đế quốc Mỹ thì đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ" (3). Nhắc đến sự kiện này, đồng chí Tố Hữu kể lại "Hồi đó mình là trưởng ban tuyên truyền... chiều 7 - 5 lên xin ý kiến Bác. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo "Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi... chiến tranh chưa kết thúc đâu, kẻ thù của ta bây giờ không phải là Pháp nữa mà là Mỹ, không khéo chuyến này ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, đừng có tếu". Điều ngạc nhiên là ông Cụ (Bác Hồ) lại nói chuyện ấy ngay sau ngày chiến thắng Điện Biên". (4)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại "... Chiều 7 - 5, ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì nhận được điện... trong bức điện có một câu "... thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ bước đầu..." tôi đứng dậy đọc điện và tôi nói với các anh lúc đó đang ngồi ở Sở chỉ huy là: chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh mới viết được câu này...". Còn lúc về Hà Nội gặp Bác Hồ, Bác có nói với anh em cán bộ "làm gì các chú tếu thế, còn phải đánh Mỹ... tầm nhìn của Bác là như vậy..."(5)

Ngày 26/ 5/ 1954 trên báo "Cứu quốc" Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bài "Pháp vỡ đầu, Mỹ càng méo mặt" nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ "... Thế là Mỹ dần dần trở nên kẻ địch chính của quân đội và nhân dân ta, và cảnh tỉnh tình thế chiến tranh mới dữ dội và ác liệt hơn đối với đất nước... nhiều Điện Biên Phủ khác đang chờ đợi chúng ta".

Không ai có thể ngờ rằng: vào thời điểm đó, bằng khả năng tiên tri và tài thao lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời ra lệnh cho tướng lĩnh của mình chuẩn bị bày đặt thế trận chiến tranh nhân dân chống lại sức mạnh "siêu phàm" của nước Mỹ với con át chủ bài không quân chiến lược, con ngáo ộp pháo đài bay B52.

Ngày 21 - 12 - 1958 Bác chủ trì hội nghị Bộ Chính trị thông qua kế hoạch xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng. Bác nêu thêm một số vấn đề rất mới và phải nói là rất sớm, đó là nghiên cứu kế hoạch phòng không nhân dân. Thượng tướng Phùng Thế Tài - nguyên tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh bộ đội phòng không cho biết"... Năm 1962... trong buổi gặp mặt hôm ấy Bác đã hỏi tôi (Phùng Thế Tài) "Bây giờ chú là tư lệnh phòng không vậy chú đã biết gì về B52 chưa... Chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B52 này...".

Cũng theo hồi ký của thượng tướng Phòng Thế Tài "Tháng 12 năm 1967... tôi được Bác gọi lên hỏi thăm tình hình. Ngay phút đầu tiên Bác đã hỏi về B52, nét mặt Bác đăm chiêu - Sớm muộn gì đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua, nó mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ thua - Bác nhìn ra cửa sổ chỉ lên bầu trời nói tiếp - Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây (tức trên bầu trời Hà Nội) Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề". Bản phương án đầu tiên đầu năm 1968 đánh trả cuộc tập kích B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng ra đời trong bối cảnh như thế" (6). Và lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên tri của Người. Năm 1972 sau thất bại thảm hại trong cuộc tập kích B52 mười hai ngày đêm vào thủ đô Hà Nội, ngày 27 - 1 - 1973 tại Pa-ri (Paris), hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện được lời dạy của Bác Hồ "Đánh cho Mỹ cút".

Cuộc chiến tranh Việt Nam là thất bại lớn nhất trong lịch sử 200 năm nước Mỹ. Chính Mác-na-ma-ra (Me Namara) nguyên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ dưới thời tổng thống Giôn-xơn (Johnson) phải chua chát thú nhận "Chúng tôi (tức Mỹ) đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp (7). Có lẽ viên cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ hối tiếc về một cơ hội hòa bình bị bỏ dở khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng chìa bàn tay nhân ái với nguyện vọng hòa bình cho cả Việt Nam và Mỹ, nhằm giải quyết chiến tranh Việt Nam trong danh dự, thì người Mỹ đã không nhận thấy để đón nhận bàn tay nhân từ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Chỉ có một cách đi tới giải pháp đó là Mỹ rút đi. Chúng tôi không muốn làm cái gì xấu đối với họ, chúng tôi sẵn sàng đem nhạc và hoa tiễn họ và mọi thứ khác mà họ thích..." (8) "Tôi xin mời ông Johnson đến Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư ký, người bác sĩ và người đầu bếp của mình, nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc! Tôi xin đảm bảo rằng: Tổng thống sẽ an toàn tuyệt đối"(9).

"...ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO"

"Mỹ cút" ắt hẳn "Ngụy nhào" đó là logíc biện chứng lịch sử đã từng diễn ra ở Việt Nam trước đó gần 30 năm (1945) gần hơn nữa cũng 20 năm (1954). Điều chúng tôi muốn nói là "Ngụy nhào" thì đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Ngày 30/4/1975 dân tộc Việt Nam đã "đọc trọn" bài thơ chúc tết cuối cùng của Bác. Trong niềm hân hoan thắng lợi đó, có ai ngờ rằng: ngày này (1975) cách đây 15 năm (1960) Bác Hồ đã dự định, đã tiên đoán một thắng lợi trọn vẹn sau cùng. Tôi lại một lần nữa sững sờ khi cầm trên tay bút tích của Bác. Lời bế mạc trong lễ quốc khánh 2/9/1960 tại nhà hát lớn thành phố Hà Nội có đoạn "Trong lúc chào mừng ngày quốc khánh vĩ đại lần thứ 15, chúng ta càng nhớ đến đồng bào miền nam đang anh dũng đấu tranh chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm. Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà"(10).

Chỉ có điều Bác khoanh lại (chứ không gạch bỏ) đoạn "chậm lắm là 15 năm nữa" và không đọc. Lý do vì sao cho đến nay không ai biết, nhưng theo chúng tôi: Bác muốn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tự phấn đấu, đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh để đến ngày giành thắng lợi, chứ không muốn chúng ta cứ ngồi chờ đến ngày thắng lợi! Như Người vẫn thường nói "Phải biết nhìn thấy: Khi nào mùa xuân sẽ đến"(11).

Kết thúc bài viết này cho phép tôi xin mượn câu nói của các nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng "Phải tìm hiểu tính độc đáo của tư duy phương Đông, một tư duy được đánh dấu bởi hoài bão tìm kiếm thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn, trực giác và tính tổng hợp"(12). Nhà xã hội học người Pháp Pôn Muyt (Paul Mus) có phần nào có lý khi ông đưa ra lập luận để nắm bắt qua Hồ Chí Minh "tâm linh" (Psyché). Còn chúng ta vẫn luôn gọi Người là Bác - Bác Hồ của chúng ta.

Huế 12.1998
C.H.H
(123/05-99)

------------------------------------------------------------------
(*) Thomas Jefferson sau trở thành Tổng thống thứ ba của nước Mỹ.
(1) Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử NXB Văn học 1977.
(2) Bác Hồ với Hà Tuyên - Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang. Tập I trang 74.
(3) Nghị quyết BCHTW Đảng lao động Việt Nam lần thứ 6 (Khóa II) 7 - 1954.
(4) Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 5 - 1994.
(5)Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Hà Nội ngày 8.5.1993 - dẫn theo Lê Cường.
(6) Bác Hồ với bộ đội phòng không - NXB sự thật 1992.
(7) RSMc Namara - Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia 1995.
(8), (9) Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris - Viện quan hệ quốc tế 1990.
(10) Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(11) Trích hồi ký của nhà văn Nga Vatali Ôdêrốp - Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Liên xô (cũ) dẫn theo Lê Cường - Tạp chí Xưa Nay số 46B tháng 12/1997
 (12) Xem: Hữu Ngọc - Phác thảo chân dung Văn hóa Pháp, NXB Ngoại văn Việt Nam, Hà Nội 1991 trang 18.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)