Chủ tịch Hồ Chí Minh với những lời tiên tri lịch sử

15:01 15/12/2009
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

Ảnh: phusaonline.free.fr

Hai quốc gia có những điểm giống và cũng rất khác nhau lại cách xa nhau nửa vòng trái đất. Đó là Việt Nam và Mỹ. Hai con người, mà một người chúng ta ai cũng biết - Chủ tịch Hồ Chí Minh và người kia là Luật sư Tô-mát-Giép-pơ-sơn (Thomas Jefferson) (*). Nhưng hiếm có sự ngẫu nhiên nào lại trùng hợp đẹp đẽ, như cuộc hẹn lịch sử tiên tri, giữa một con người mà cả cuộc đời gắn bó với dân tộc và thời đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bài viết này, chúng tôi xin trình bày một số dự đoán thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà ít người trong chúng ta có thể chưa hiểu rõ.

- "VIỆT NAM ĐỘC LẬP... 1945"

Tôi tình cờ đọc cuốn "Những chặng đường lịch sử" của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Nhà xuất bản Văn học 1977, trong đó có một định đề để chúng ta trao đổi "Thực tiễn và thời gian sẽ là kiểm nghiệm nghiêm khắc những điều tiên tri đó thuộc về những thiên tài, có điều lịch sử đã diễn ra đúng như dự đoán của Người".

Hẳn chúng ta ai cũng biết cuốn "Lịch sử nước ta" mở đầu có hai câu "Dân ta phải biết sử ta; Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam" do chính tay Bác Hồ viết, Bộ Tuyên truyền Việt Minh xuất bản tháng 2/1992 ở căn cứ Cao Bằng. Cuốn sách bằng thơ dài 210 câu theo thể thơ lục bát, dễ hiểu, dễ nhớ đó dùng làm tài liệu tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân. Điều đặc biệt là: Tuy giữa lúc cách mạng còn khó khăn, nhưng trong niên biểu "Những năm quan trọng" ở cuối cuốn sách, Bác Hồ đã tiên đoán "Việt Nam độc lập... 1945".

Theo đồng chí Võ Nguyên Giáp - một trong những cộng sự gần gũi thân cận với Bác - người duy nhất đặt vấn đề về sự kiện Bác Hồ tiên đoán ngày cách mạng thành công kể lại: "Mùa xuân 1941 - Bác Hồ đã tiên đoán ngày cách mạng thành công 45 - sự nghiệp hoàn thành". Bác không hề nhắc lại câu thơ này. Từ đó đến nay, bị lôi cuốn vào công việc, anh em chúng tôi cũng chưa có dịp hỏi lại Bác: Vì sao Bác có một sự tiên đoán như vậy, điều đó đã trở thành một trong những điều ta chưa hiểu hết được về con người và cuộc đời hoạt động cách mạng vĩ đại gần 60 năm của Bác" (1).

Đầu năm 1945, khi còn ở Tân Trào, Bác Hồ đã nhờ trung úy Phe Lan có biệt danh là Giôn trong nhóm "Chim Họa Mi" của quân Đồng Minh chống phát xít... điện về Côn Minh (Trung Quốc) xin một bản sao tuyên ngôn độc lập Mỹ để tham khảo và chuẩn bị cho các tuyên ngôn thông điệp sau tổng khởi nghĩa tháng 8. 1945. Chúng ta còn nhớ câu nói của Bác Hồ trong những ngày. Người ốm nặng tại lán Nà lừa trước ngày tổng khởi nghĩa. "Lúc này là thời cơ thuận lợi đã tới, dù phải hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dẫy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập", (2). Bác Hồ của chúng ta từ lời nói, việc làm, quyết tâm và hành động kiên quyết đều đồng nhất như thế đó!

- Đế quốc Mỹ sẽ xâm lược Việt Nam và nhân dân Việt Nam đánh thắng Mỹ kết thúc bằng trận Điện Biên Phủ trên không.

"ĐÁNH CHO MỸ CÚT..."

Trong mỗi trái tim của người Việt Nam hẳn không quên bài thơ chúc tết mùa xuân Kỷ Dậu 1969 - năm cuối cùng trước lúc Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta có câu "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào". Câu thơ đã đi vào lịch sử như lời thúc dục, quyết tâm của cả dân tộc và chiến lược của cách mạng Việt Nam. Tôi cố lục tìm trong tất cả di cảo của Người mà mình có được và thật bàng hoàng xúc động, không rõ vì sao Bác Hồ của chúng ta có linh cảm tài tình đến thế. Bởi lịch sử vốn có những ngẫu nhiên và cũng vô vàn biến cố bất ngờ kể cả vào giờ phút chót của sự thắng lợi, nhưng ở Bác Hồ, lịch sử đã diễn ra như lối ước hẹn trước! "... Đánh cho Mỹ cút", không phải đến khi Mỹ đổ quân vào miên Nam 1964 Người mới nói đến chuyện đánh Mỹ. Mà ngay sau khi chiến dịch Điện Biên Phủ vừa kết thúc; hội nghị Giơ-ne-vơ (Genève) mới bắt đầu họp, Hồ Chủ tịch đã khẳng định". Bây giờ Pháp thì đang nói chuyện với ta, đế quốc Mỹ thì đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ" (3). Nhắc đến sự kiện này, đồng chí Tố Hữu kể lại "Hồi đó mình là trưởng ban tuyên truyền... chiều 7 - 5 lên xin ý kiến Bác. Có điều lạ là Bác rất bình thản. Bác bảo "Đây chỉ là chiến thắng bước đầu thôi... chiến tranh chưa kết thúc đâu, kẻ thù của ta bây giờ không phải là Pháp nữa mà là Mỹ, không khéo chuyến này ta phải đánh nhau với Mỹ, còn lâu dài đấy, đừng có tếu". Điều ngạc nhiên là ông Cụ (Bác Hồ) lại nói chuyện ấy ngay sau ngày chiến thắng Điện Biên". (4)

Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhớ lại "... Chiều 7 - 5, ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ thì nhận được điện... trong bức điện có một câu "... thắng lợi tuy lớn nhưng mới chỉ bước đầu..." tôi đứng dậy đọc điện và tôi nói với các anh lúc đó đang ngồi ở Sở chỉ huy là: chỉ có Chủ tịch Hồ Chí Minh mới viết được câu này...". Còn lúc về Hà Nội gặp Bác Hồ, Bác có nói với anh em cán bộ "làm gì các chú tếu thế, còn phải đánh Mỹ... tầm nhìn của Bác là như vậy..."(5)

Ngày 26/ 5/ 1954 trên báo "Cứu quốc" Chủ tịch Hồ Chí Minh còn viết bài "Pháp vỡ đầu, Mỹ càng méo mặt" nhắc nhở đồng bào và chiến sĩ "... Thế là Mỹ dần dần trở nên kẻ địch chính của quân đội và nhân dân ta, và cảnh tỉnh tình thế chiến tranh mới dữ dội và ác liệt hơn đối với đất nước... nhiều Điện Biên Phủ khác đang chờ đợi chúng ta".

Không ai có thể ngờ rằng: vào thời điểm đó, bằng khả năng tiên tri và tài thao lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời ra lệnh cho tướng lĩnh của mình chuẩn bị bày đặt thế trận chiến tranh nhân dân chống lại sức mạnh "siêu phàm" của nước Mỹ với con át chủ bài không quân chiến lược, con ngáo ộp pháo đài bay B52.

Ngày 21 - 12 - 1958 Bác chủ trì hội nghị Bộ Chính trị thông qua kế hoạch xây dựng quân đội và củng cố quốc phòng. Bác nêu thêm một số vấn đề rất mới và phải nói là rất sớm, đó là nghiên cứu kế hoạch phòng không nhân dân. Thượng tướng Phùng Thế Tài - nguyên tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh bộ đội phòng không cho biết"... Năm 1962... trong buổi gặp mặt hôm ấy Bác đã hỏi tôi (Phùng Thế Tài) "Bây giờ chú là tư lệnh phòng không vậy chú đã biết gì về B52 chưa... Chú phải theo dõi chặt chẽ và thường xuyên quan tâm đến loại máy bay B52 này...".

Cũng theo hồi ký của thượng tướng Phòng Thế Tài "Tháng 12 năm 1967... tôi được Bác gọi lên hỏi thăm tình hình. Ngay phút đầu tiên Bác đã hỏi về B52, nét mặt Bác đăm chiêu - Sớm muộn gì đế quốc Mỹ sẽ đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua, nó mới chịu thua... Ở Việt Nam, Mỹ sẽ thua - Bác nhìn ra cửa sổ chỉ lên bầu trời nói tiếp - Nhưng nó chỉ chịu thua sau khi thua ở đây (tức trên bầu trời Hà Nội) Vì vậy nhiệm vụ của các chú rất nặng nề". Bản phương án đầu tiên đầu năm 1968 đánh trả cuộc tập kích B52 của đế quốc Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng ra đời trong bối cảnh như thế" (6). Và lịch sử đã diễn ra đúng như lời tiên tri của Người. Năm 1972 sau thất bại thảm hại trong cuộc tập kích B52 mười hai ngày đêm vào thủ đô Hà Nội, ngày 27 - 1 - 1973 tại Pa-ri (Paris), hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết. Nhân dân Việt Nam đã thực hiện được lời dạy của Bác Hồ "Đánh cho Mỹ cút".

Cuộc chiến tranh Việt Nam là thất bại lớn nhất trong lịch sử 200 năm nước Mỹ. Chính Mác-na-ma-ra (Me Namara) nguyên Bộ trưởng quốc phòng Mỹ dưới thời tổng thống Giôn-xơn (Johnson) phải chua chát thú nhận "Chúng tôi (tức Mỹ) đã sai lầm, sai lầm khủng khiếp (7). Có lẽ viên cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ hối tiếc về một cơ hội hòa bình bị bỏ dở khi Chủ tịch Hồ Chí Minh sẵn sàng chìa bàn tay nhân ái với nguyện vọng hòa bình cho cả Việt Nam và Mỹ, nhằm giải quyết chiến tranh Việt Nam trong danh dự, thì người Mỹ đã không nhận thấy để đón nhận bàn tay nhân từ đó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói "Chỉ có một cách đi tới giải pháp đó là Mỹ rút đi. Chúng tôi không muốn làm cái gì xấu đối với họ, chúng tôi sẵn sàng đem nhạc và hoa tiễn họ và mọi thứ khác mà họ thích..." (8) "Tôi xin mời ông Johnson đến Hà Nội như là khách của chúng tôi. Ông hãy đến với vợ và con gái, người thư ký, người bác sĩ và người đầu bếp của mình, nhưng đừng mang theo tướng lĩnh và đô đốc! Tôi xin đảm bảo rằng: Tổng thống sẽ an toàn tuyệt đối"(9).

"...ĐÁNH CHO NGỤY NHÀO"

"Mỹ cút" ắt hẳn "Ngụy nhào" đó là logíc biện chứng lịch sử đã từng diễn ra ở Việt Nam trước đó gần 30 năm (1945) gần hơn nữa cũng 20 năm (1954). Điều chúng tôi muốn nói là "Ngụy nhào" thì đất nước ta mới hoàn toàn thống nhất, non sông thu về một mối. Ngày 30/4/1975 dân tộc Việt Nam đã "đọc trọn" bài thơ chúc tết cuối cùng của Bác. Trong niềm hân hoan thắng lợi đó, có ai ngờ rằng: ngày này (1975) cách đây 15 năm (1960) Bác Hồ đã dự định, đã tiên đoán một thắng lợi trọn vẹn sau cùng. Tôi lại một lần nữa sững sờ khi cầm trên tay bút tích của Bác. Lời bế mạc trong lễ quốc khánh 2/9/1960 tại nhà hát lớn thành phố Hà Nội có đoạn "Trong lúc chào mừng ngày quốc khánh vĩ đại lần thứ 15, chúng ta càng nhớ đến đồng bào miền nam đang anh dũng đấu tranh chống chế độ tàn bạo của Mỹ - Diệm. Chúng ta gửi đến đồng bào miền Nam mối tình ruột thịt và hứa với đồng bào rằng: Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, Bắc Nam nhất định sum họp một nhà"(10).

Chỉ có điều Bác khoanh lại (chứ không gạch bỏ) đoạn "chậm lắm là 15 năm nữa" và không đọc. Lý do vì sao cho đến nay không ai biết, nhưng theo chúng tôi: Bác muốn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tự phấn đấu, đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh để đến ngày giành thắng lợi, chứ không muốn chúng ta cứ ngồi chờ đến ngày thắng lợi! Như Người vẫn thường nói "Phải biết nhìn thấy: Khi nào mùa xuân sẽ đến"(11).

Kết thúc bài viết này cho phép tôi xin mượn câu nói của các nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng "Phải tìm hiểu tính độc đáo của tư duy phương Đông, một tư duy được đánh dấu bởi hoài bão tìm kiếm thống nhất của vũ trụ, sự hài hòa giữa những mâu thuẫn, trực giác và tính tổng hợp"(12). Nhà xã hội học người Pháp Pôn Muyt (Paul Mus) có phần nào có lý khi ông đưa ra lập luận để nắm bắt qua Hồ Chí Minh "tâm linh" (Psyché). Còn chúng ta vẫn luôn gọi Người là Bác - Bác Hồ của chúng ta.

Huế 12.1998
C.H.H
(123/05-99)

------------------------------------------------------------------
(*) Thomas Jefferson sau trở thành Tổng thống thứ ba của nước Mỹ.
(1) Võ Nguyên Giáp - Những chặng đường lịch sử NXB Văn học 1977.
(2) Bác Hồ với Hà Tuyên - Lịch sử Đảng bộ Tuyên Quang. Tập I trang 74.
(3) Nghị quyết BCHTW Đảng lao động Việt Nam lần thứ 6 (Khóa II) 7 - 1954.
(4) Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 5 - 1994.
(5)Võ Nguyên Giáp trả lời phỏng vấn của Đài Truyền hình Hà Nội ngày 8.5.1993 - dẫn theo Lê Cường.
(6) Bác Hồ với bộ đội phòng không - NXB sự thật 1992.
(7) RSMc Namara - Nhìn lại quá khứ: Tấm thảm kịch và những bài học về Việt Nam - NXB Chính trị Quốc gia 1995.
(8), (9) Tiếp xúc bí mật Việt Nam - Hoa Kỳ trước hội nghị Paris - Viện quan hệ quốc tế 1990.
(10) Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(11) Trích hồi ký của nhà văn Nga Vatali Ôdêrốp - Ủy viên Ban thư ký Hội Nhà văn Liên xô (cũ) dẫn theo Lê Cường - Tạp chí Xưa Nay số 46B tháng 12/1997
 (12) Xem: Hữu Ngọc - Phác thảo chân dung Văn hóa Pháp, NXB Ngoại văn Việt Nam, Hà Nội 1991 trang 18.




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)

  • NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

  • BÙI VIỆT THẮNGVịt trời lông tía bay về (*) là sự lựa chọn có thể nói rất khắt khe của chính nhà văn Hồng Nhu, rút từ cả chục tập và chưng cất ba mươi truyện ngắn tiêu biểu của gần trọn một đời văn. Con số 33 là ít những không là ít vì nhà văn ý thức được sâu sắc quy luật nghiệt ngã của nghệ thuật ngôn từ “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. 33 truyện được chọn lọc trong tập sách này có thể gọi là “tinh tuyển truyện ngắn Hồng Nhu”.

  • PHẠM PHÚ PHONGPhạm Đương có thơ đăng báo từ khi còn là sinh viên khoá bốn, khoa Ngữ văn đại học Tổng hợp Huế. Đó là thời kỳ anh sinh hoạt trong câu lạc bộ văn học của thành đoàn Huế, dưới sự đỡ đầu của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (lúc này vừa rời ghế Bí thư thành đoàn, sang làm Tổng biên tập Tạp chí Sông Hương vừa mới thành lập.)

  • HÀ KHÁNH LINHNgười lính chiến trở về bỏ lại một phần thân thể của mình trên trận mạc, tựa vào gốc nhãn hoang bên vỉa hè lầm lụi kiếm sống, thẳng ngay, chân thật, khiêm nhường.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNTrong Ngày Thơ Việt vừa qua, một tuyển tập thơ “nặng hàng trăm năm” đã được đặt trang trọng tại Văn Miếu Quốc Tử Giám Hà Nội. Rất nhiều những bài thơ xứng đáng với danh xưng hay nhất thế kỷ XX đã “biện lý do” vắng mặt, và ngược lại. Đấy là một trong nhiều sự thật được đa phần dư luận kiểm chứng. Cũng là một góc nhìn khá rõ nét, Sông Hương xin giới thiệu ba bài viết của Phạm Xuân Nguyên, Nguyễn Hữu Qúy và Phước Giang về tuyển tập thơ “nặng ký” trên.

  • NGUYỄN HỮU QUÝCuộc thi bình chọn 100 bài thơ hay nhất Việt Nam thế kỷ XX do Trung tâm Văn hoá doanh nhân và Nhà xuất bản Giáo Dục phối hợp tổ chức đã kết thúc. Một ấn phẩm mang tên “100 bài thơ hay nhất Việt thế kỷ XX” đã được ra đời. Nhiều người tìm đọc, trong đó có các nhà thơ và không ít người đã tỏ ra thất vọng, nghi ngờ.