NGUYÊN HƯƠNG
Nhớ có lần An Ni nói, nước một khi chảy sâu, sẽ không phát ra tiếng. Tình cảm con người một khi sâu sắc, cũng sẽ tỏ ra đạm bạc. Chính là sự giản đơn, cần kiệm. Ký ức cũng vậy. Nó không cầu xin sự chải chuốt kỳ cọ. Nó cần nguyên vẹn là mình.
Minh họa: Nhím
Có mấy điều mà chắc chắn tôi sẽ nhớ mãi, không thể quên. Mùi ẩm mốc trong ngôi nhà ngói sau kỳ mưa phùn. Mùi cơm sôi. Ánh sáng loang dưới nền nhà. Tiếng nói thầm thì như chực khóc. Mùi khói chiều. Mùi sách cũ. Gương mặt nhàu như táo héo, trên tay là mớ bánh giò còn bốc hơi. Vảy cá đồng. Cây rau ngót với những cuống lá chi chít bọ rệp... Mở ngăn kéo ra, trút từng thứ vào đó, khóa lại kỹ càng. Bao ngày lang bạt gió sương, cứ ngỡ hương phấn thị thành làm cho quyến luyến mà rút cuộc lại chỉ biết nương nhờ vào chốn ấy. Có lúc tự hỏi, giờ tìm mấy điều ấy ở đâu, khó lắm, vì có khi chỉ là nhang nhác giống chứ không thể y nguyên. Yên phận trong thiếu thốn. Dè sẻn cả những chia sẻ và trang trải với người ngoài, vì lại phải nhọc công nói rõ nguồn cơn. Cho nên cứ tự do ngồi xuống, nhắm mắt trò chuyện với từng mảnh vụn, trở đi trở lại. Rồi thấy mình loang lổ, trồi sụt trong chính nhớ thương của mình. Nói như Trịnh, tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe.
Chiều. Đạp xe vòng quanh. Tính ra đường tàu để thăm mệ già nhưng lơ đãng thế nào mà lại không thực hiện được. Huế bấy giờ cuối xuân, hoàng mai đang ở những cánh cuối cùng. Có một dạng rung động thoắt đến, khiến người ta trầm tĩnh và gói ghém hồi lâu, đó chính là nhan sắc của hoàng mai. Nhớ lần đầu tiên được nhìn thấy hoàng mai, bao mảnh vàng khác đều trỗi dậy đố kỵ trong trí nhớ của tôi. Màu vàng hoa cải, màu vàng hoa mướp, màu vàng dã quỳ... luôn là những nỗi thương cảm âm ỉ thiêu đốt trong lòng, thế rồi hoàng mai xuất hiện, nở như chưa từng biết giới hạn của thời gian, quên đi khai nụ và tận tàn, quên đi một mảnh vườn nhỏ bị bỏ rơi khiến tôi nghĩ tới hơi thở trong suốt từ màu vàng ấy. Tôi hình dung, nếu lúc này có một huyên náo nào đó rơi xuống cũng chỉ là số không, may hơn, chỉ là kẻ dự phần. Chùm bông năm cánh nở thẫm trong nắng chiều tiết lộ nhiều tầng ý nghĩa của trần thế, có thể từ từ ấy ra từng thứ một. Nào rực rỡ, nào tàn phai, nào hoài niệm, nào nhớ nhung, nào mất mát..., chỉ duy, qua sắc vàng rất mộc nhưng cũng rất sang ấy. Cái màu vàng mà khi xuân đã cạn, đủ sức để lại một thi thể của nỗi nhớ.
Tôi chỉ tin tưởng thời gian. Nên tôi tin buổi chiều hôm ấy đã gửi tôi về đúng chỗ của mình. Quán nằm ở ngoại ô, lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng với đủ các loại dấu hiệu của văn minh kim khí. Không biển hiệu cầu kỳ. Không rình rang đàn ca sáo nhị. Không son phấn. Gỗ cũ, gốm sứ, hoa lá chính là chủ nhân của chốn này. Người duy nhất ngồi ngay trước cửa, từ tốn bưng bê trà bánh, đi lại tự do trong chính không gian của mình, rốt cùng cũng chỉ là vai phụ. Nơi này mọi thứ không lời lên ngôi, chiếm hữu và chạm đến vực sâu của sinh mệnh. Tĩnh lặng, u buồn nhưng tuyệt nhiên không phải tăm tối.
Ngồi uống trà. Ăn miếng mứt gừng. Trước mặt là hoàng mai, sau lưng là hoa giấy đã qua mấy mùa Tết. Mùi Nguyên đán vẫn còn vương vất. Thấy như đang ở nhà, dù nhà mình trà khác, hoa lại càng khác. Nghĩ trong lòng, lâu rồi mới tìm được nơi ưng ý toàn phần thế này. Huế nhiều quán cũ, phong cách hoài cổ như ri nhưng tạp âm thành phố vẫn lọt vào rõ rệt. Đây ngoại ô, gần giống ngõ trong làng, còi xe lưu thông tối giản, có chăng là tiếng con nít tụ nhau lúc tan học về. Đây ngoại ô, rõ ràng là nơi trú ngụ của tro tàn, có thể ngủ thiếp đi bất cứ lúc nào, có thể nũng nịu với cây xanh mà không lo ốt dột với người đời. Đây ngoại ô, những trầm mặc cá nhân không bị quy chụp là diễn sâu hay làm kiểu, nếu có nỗi buồn nào đến từ thực hay mơ, người cũng mong ở lại mãi mãi.
Trà đã ngấm, nhạc Thiền rủ rĩ ngân lên, mùi nhang trầm lặn sâu vào không gian và miếng vải hoa trải bàn. Thơm tho. Thanh thản. Khói trầm nghi ngút, bám vào tóc rối, làm đục mờ đôi mắt trong ít phút, tuồng như một chớp nhoáng rải bùa. Một mình một bàn, xung quanh không có ai, chủ quán lúi húi ở trong cũng vì không muốn đi qua đi lại phiền mắt nhìn của khách. Cô đơn, tự do, đầy đủ. Xin thêm bất cứ điều gì lúc ấy cũng là tham lam. Muốn trú ngụ nỗi buồn ở đây. Không điện thoại. Không email. Không họ hàng làng xã. Lặng im. Chìm nghỉm. Để hồi vị những thứ tưởng như đã tận tàn. Nó gợi nhớ đến những buổi chiều ở Phó Bảng, được nghe tiếng hát mộng mị của Ly, trong màu chiều đương ráng, đỏ ối nhưng câm lặng. Nơi ấy có những người đàn bà ngày ngày chăm con riêng của chồng bằng bàn tay chai sần dày cộp như miếng cháy trong nồi cám và khi cần thì vẫn giương bầu vú chưa bao giờ có sữa cho chúng nhay rứt đến rỉ máu. Trong một góc khuất kín của đồng rừng, những khát vọng sống tựa như chiếc váy thêu sặc sỡ bảy màu, dù có bị cất giấu kỹ nơi đáy tủ thì vẫn biết cách để phát đi những tín hiệu sống mãnh liệt nhất. Phút chốc, ùa vạt tóc ra trước, cốt để che mặt mình, cụp mắt cái rụp, vì tự dưng thấy chán ngán mặt người, chán ngán những phát âm và tiếng động. Đúng hơn, chán chính mình.
Phải rất lâu mới nhận ra, tâm hồn cũng giống như cái bồn rửa bát, chỉ khi dọn dẹp sạch sẽ thì mới nhẹ nhàng được. Không phải giác ngộ, sám hối hay thiền tịnh gì cao xa, chỉ là buông bỏ những cái không cần thiết. Xưa nhớ, có lần đi cafe một mình, chỗ đó mở nhạc bằng loa cổ hình hoa loa kèn, bên cạnh cũng là một bình loa kèn đẹp như mộng. Hồi đó tháng Tư trong xanh, lác đác lá rụng. Nguyên Thảo hát Phạm Duy. Quý giọng Thảo lắm. Chính xác là si. Si đổ cành gãy lá, từ dạo tình cờ nghe Thảo hát Tóc em chưa úa nắng hè, nhưng phải đến Nếu một mai em sẽ qua đời thì mới chính thức chết đứ đừ. Với cả, Thảo không ồn ào, không tuyên ngôn, không thuộc về đời sống showbiz. Chỉ lặng lẽ hát. Cũng chỉ lặng lẽ xuất hiện trong những show nhạc đẳng cấp, còn lại vì nể người này người kia mà nhận hát. Tiếng hát cho tôi tự nhận chắc chắn về mình một chân dung độc, tĩnh và cháy bỏng ẩn ngầm. Đơn giản, để có thể riêng tư và là mình trong âm nhạc, người ta đã phải tự dàn xếp và phớt lờ nhiều cái chừng như không liên quan. Từ đó, họ tự ghi chép mình, lụy mình, cười khóc mình. Và cũng tự ruồng bỏ mình.
Bỗng dưng thèm một điếu Richmond. Lâu rồi không hút thuốc. Tối qua đi ăn về thấy quán đó thắp nến trong mưa mù tối ẩm mà thích quá. Ngồi đó một mình nghe nhạc và nhấp ngụm cafe thì hay lắm đấy. Có tí khói thuốc nữa càng hay. Kỳ thực, chỉ thích ngồi một mình.
Chủ quán trà ra vườn bới về một thúng lá, nhóm bếp nổi lửa đun nước buổi chiều. Bếp nằm ngoài cửa, bên phải lối đi vào nhà, chiếc gác-măng-rê im lìm trong góc, chờ Tết tới lần hồi. Mùi lá nhãn thơm kiểu đồng đất ruộng vườn, muốn thửa vào lọ để mang về ngửi riêng. Khói bếp bay lên, đánh thức cơn ngái ngủ buổi chiều của những bàn ghế, gốm sứ, hoa lá vây quanh. Nó trùm mình lên từng tấm gỗ mối mọt, khay chén cũ kỹ, cả những đóa hoa khô chờ người rũ bụi. Nó khiến những mục ẩm trở mình trỗi dậy, khát ngày nắng lên. Làn khói lẳng lặng trôi vào nhà trong, phả một màn sương bông vào ánh điện màu vàng đục và bình cúc trắng, chiếm hữu ngôi nhà một cách không khoan nhượng. Từ ngoài nhìn vào, trong ánh sáng tối giản và sự ngự trị của đồ gỗ, thấy thế giới thu gọn trong một làn khói trắng, bảng lảng, huyền hồ như được rơi ra từ đêm. Tôi nhìn trộm người đốt lá, và ngoảnh đi rất nhanh trước khi bị bắt gặp. Chiếc điện thoại ba lần rút ra rồi lại nhét vào túi vì không lỡ phát ra âm thanh khi chụp để bị gây chú ý. Cứ thế, vừa dấm dúi vừa hân hoan. Con người không có chỗ để chen vào một câu, chỉ mải miết nhìn ngắm và đối thoại trong im lặng. Đã từng rất nhiều lần tự tay đốt lá, cũng từng nhiều lần được chìm vào làn khói đồng nhưng chưa bao giờ thấy khói mê hoặc đến vậy. Lại là một làn khói đốt lá khỏa ra giữa không gian của một quán trà ngoại ô, khách khứa rất ít và hầu như chẳng có một cuộc nói chuyện nào. Tất cả là lời của lặng im.
Thoáng bóng thạch thảo, hình như đã qua ngày rực rỡ, giờ đang ngả úa sang tàn. Vạt bồ hóng từ gác bếp sánh đặc trên ngói cót, nhếch nhác nhưng lại đầy gợi cảm. Nến chiều đã thắp, tỏa ánh sáng như muốn thiêu rụi những han gỉ trên song sắt. Ngồi ở đây, chợt nhớ cái cách Khê chơi một khúc trong concerto của Bruch giữa xa xăm hôm nào, buông lỏng, thăng hoa, màu mahogany từ chiếc violin cho cô ấy biết, mọi thứ đã đi quá xa sự héo tàn ảm đạm mỗi ngày.
Thoáng chốc nhận ra, dường như chúng ta có mặt trên đời này là để thi nhau tốc độ chôn cất nỗi chán chường. Ai sung sướng hơn ai, ai đau khổ hơn ai. Ai xấu xa, ai lương thiện. Mấy điều ấy rạch ròi cũng chẳng để làm gì. Rút cuộc, tài sản lớn nhất trong cuộc đời của một con người, không phải tiền bạc, không phải đất cát nhà cửa, mà chính là hồi ức.
Khi ở trong hồi ức, người trong sáng với buồn vui của mình. Không liên quan đến bất cứ một sự gánh vác hay bố trí mang tính xã hội nào. Chỉ chăm chăm tàng trữ nó như một thứ đồ cổ, gói ghém kỹ lưỡng, cẩn thận. Muốn nó mãi mãi mộc mạc và chứa mùi cây cỏ. Như một mái tóc đen nhánh. Không uốn nhuộm, không là ủi, không cắt tỉa. Chỉ để đen nhánh, mọc tự nhiên. Đêm đêm, lén lút rót nó ra như một ly rượu nho, có thể nhấm nháp hoặc tu ừng ực cho cạn ráo.
Rồi từ đó, chậm rãi trầm mình chìm xuống. N.Hcửa, bên phải lối đi vào nhà, chiếc gác-măng-rê im lìm trong góc, chờ Tết tới lần hồi. Mùi lá nhãn thơm kiểu đồng đất ruộng vườn, muốn thửa vào lọ để mang về ngửi riêng. Khói bếp bay lên, đánh thức cơn ngái ngủ buổi chiều của những bàn ghế, gốm sứ, hoa lá vây quanh. Nó trùm mình lên từng tấm gỗ mối mọt, khay chén cũ kỹ, cả những đóa hoa khô chờ người rũ bụi. Nó khiến những mục ẩm trở mình trỗi dậy, khát ngày nắng lên. Làn khói lẳng lặng trôi vào nhà trong, phả một màn sương bông vào ánh điện màu vàng đục và bình cúc trắng, chiếm hữu ngôi nhà một cách không khoan nhượng. Từ ngoài nhìn vào, trong ánh sáng tối giản và sự ngự trị của đồ gỗ, thấy thế giới thu gọn trong một làn khói trắng, bảng lảng, huyền hồ như được rơi ra từ đêm. Tôi nhìn trộm người đốt lá, và ngoảnh đi rất nhanh trước khi bị bắt gặp. Chiếc điện thoại ba lần rút ra rồi lại nhét vào túi vì không lỡ phát ra âm thanh khi chụp để bị gây chú ý. Cứ thế, vừa dấm dúi vừa hân hoan. Con người không có chỗ để chen vào một câu, chỉ mải miết nhìn ngắm và đối thoại trong im lặng. Đã từng rất nhiều lần tự tay đốt lá, cũng từng nhiều lần được chìm vào làn khói đồng nhưng chưa bao giờ thấy khói mê hoặc đến vậy. Lại là một làn khói đốt lá khỏa ra giữa không gian của một quán trà ngoại ô, khách khứa rất ít và hầu như chẳng có một cuộc nói chuyện nào. Tất cả là lời của lặng im.
Thoáng bóng thạch thảo, hình như đã qua ngày rực rỡ, giờ đang ngả úa sang tàn. Vạt bồ hóng từ gác bếp sánh đặc trên ngói cót, nhếch nhác nhưng lại đầy gợi cảm. Nến chiều đã thắp, tỏa ánh sáng như muốn thiêu rụi những han gỉ trên song sắt. Ngồi ở đây, chợt nhớ cái cách Khê chơi một khúc trong concerto của Bruch giữa xa xăm hôm nào, buông lỏng, thăng hoa, màu mahogany từ chiếc violin cho cô ấy biết, mọi thứ đã đi quá xa sự héo tàn ảm đạm mỗi ngày.
Thoáng chốc nhận ra, dường như chúng ta có mặt trên đời này là để thi nhau tốc độ chôn cất nỗi chán chường. Ai sung sướng hơn ai, ai đau khổ hơn ai. Ai xấu xa, ai lương thiện. Mấy điều ấy rạch ròi cũng chẳng để làm gì. Rút cuộc, tài sản lớn nhất trong cuộc đời của một con người, không phải tiền bạc, không phải đất cát nhà cửa, mà chính là hồi ức.
Khi ở trong hồi ức, người trong sáng với buồn vui của mình. Không liên quan đến bất cứ một sự gánh vác hay bố trí mang tính xã hội nào. Chỉ chăm chăm tàng trữ nó như một thứ đồ cổ, gói ghém kỹ lưỡng, cẩn thận. Muốn nó mãi mãi mộc mạc và chứa mùi cây cỏ. Như một mái tóc đen nhánh. Không uốn nhuộm, không là ủi, không cắt tỉa. Chỉ để đen nhánh, mọc tự nhiên. Đêm đêm, lén lút rót nó ra như một ly rượu nho, có thể nhấm nháp hoặc tu ừng ực cho cạn ráo.
Rồi từ đó, chậm rãi trầm mình chìm xuống.
N.H
(SHSDB28/03-2018)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.
BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.
PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.
XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.
NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.
TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.
NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!
Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.
NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com
VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.
TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.
TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.
TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…
MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.
NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.
HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.
NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.
LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…
HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...