NGUYÊN HƯƠNG
Nhớ có lần An Ni nói, nước một khi chảy sâu, sẽ không phát ra tiếng. Tình cảm con người một khi sâu sắc, cũng sẽ tỏ ra đạm bạc. Chính là sự giản đơn, cần kiệm. Ký ức cũng vậy. Nó không cầu xin sự chải chuốt kỳ cọ. Nó cần nguyên vẹn là mình.
Minh họa: Nhím
Có mấy điều mà chắc chắn tôi sẽ nhớ mãi, không thể quên. Mùi ẩm mốc trong ngôi nhà ngói sau kỳ mưa phùn. Mùi cơm sôi. Ánh sáng loang dưới nền nhà. Tiếng nói thầm thì như chực khóc. Mùi khói chiều. Mùi sách cũ. Gương mặt nhàu như táo héo, trên tay là mớ bánh giò còn bốc hơi. Vảy cá đồng. Cây rau ngót với những cuống lá chi chít bọ rệp... Mở ngăn kéo ra, trút từng thứ vào đó, khóa lại kỹ càng. Bao ngày lang bạt gió sương, cứ ngỡ hương phấn thị thành làm cho quyến luyến mà rút cuộc lại chỉ biết nương nhờ vào chốn ấy. Có lúc tự hỏi, giờ tìm mấy điều ấy ở đâu, khó lắm, vì có khi chỉ là nhang nhác giống chứ không thể y nguyên. Yên phận trong thiếu thốn. Dè sẻn cả những chia sẻ và trang trải với người ngoài, vì lại phải nhọc công nói rõ nguồn cơn. Cho nên cứ tự do ngồi xuống, nhắm mắt trò chuyện với từng mảnh vụn, trở đi trở lại. Rồi thấy mình loang lổ, trồi sụt trong chính nhớ thương của mình. Nói như Trịnh, tôi thấy tôi là chút vết mực nhòe.
Chiều. Đạp xe vòng quanh. Tính ra đường tàu để thăm mệ già nhưng lơ đãng thế nào mà lại không thực hiện được. Huế bấy giờ cuối xuân, hoàng mai đang ở những cánh cuối cùng. Có một dạng rung động thoắt đến, khiến người ta trầm tĩnh và gói ghém hồi lâu, đó chính là nhan sắc của hoàng mai. Nhớ lần đầu tiên được nhìn thấy hoàng mai, bao mảnh vàng khác đều trỗi dậy đố kỵ trong trí nhớ của tôi. Màu vàng hoa cải, màu vàng hoa mướp, màu vàng dã quỳ... luôn là những nỗi thương cảm âm ỉ thiêu đốt trong lòng, thế rồi hoàng mai xuất hiện, nở như chưa từng biết giới hạn của thời gian, quên đi khai nụ và tận tàn, quên đi một mảnh vườn nhỏ bị bỏ rơi khiến tôi nghĩ tới hơi thở trong suốt từ màu vàng ấy. Tôi hình dung, nếu lúc này có một huyên náo nào đó rơi xuống cũng chỉ là số không, may hơn, chỉ là kẻ dự phần. Chùm bông năm cánh nở thẫm trong nắng chiều tiết lộ nhiều tầng ý nghĩa của trần thế, có thể từ từ ấy ra từng thứ một. Nào rực rỡ, nào tàn phai, nào hoài niệm, nào nhớ nhung, nào mất mát..., chỉ duy, qua sắc vàng rất mộc nhưng cũng rất sang ấy. Cái màu vàng mà khi xuân đã cạn, đủ sức để lại một thi thể của nỗi nhớ.
Tôi chỉ tin tưởng thời gian. Nên tôi tin buổi chiều hôm ấy đã gửi tôi về đúng chỗ của mình. Quán nằm ở ngoại ô, lọt thỏm giữa những ngôi nhà cao tầng với đủ các loại dấu hiệu của văn minh kim khí. Không biển hiệu cầu kỳ. Không rình rang đàn ca sáo nhị. Không son phấn. Gỗ cũ, gốm sứ, hoa lá chính là chủ nhân của chốn này. Người duy nhất ngồi ngay trước cửa, từ tốn bưng bê trà bánh, đi lại tự do trong chính không gian của mình, rốt cùng cũng chỉ là vai phụ. Nơi này mọi thứ không lời lên ngôi, chiếm hữu và chạm đến vực sâu của sinh mệnh. Tĩnh lặng, u buồn nhưng tuyệt nhiên không phải tăm tối.
Ngồi uống trà. Ăn miếng mứt gừng. Trước mặt là hoàng mai, sau lưng là hoa giấy đã qua mấy mùa Tết. Mùi Nguyên đán vẫn còn vương vất. Thấy như đang ở nhà, dù nhà mình trà khác, hoa lại càng khác. Nghĩ trong lòng, lâu rồi mới tìm được nơi ưng ý toàn phần thế này. Huế nhiều quán cũ, phong cách hoài cổ như ri nhưng tạp âm thành phố vẫn lọt vào rõ rệt. Đây ngoại ô, gần giống ngõ trong làng, còi xe lưu thông tối giản, có chăng là tiếng con nít tụ nhau lúc tan học về. Đây ngoại ô, rõ ràng là nơi trú ngụ của tro tàn, có thể ngủ thiếp đi bất cứ lúc nào, có thể nũng nịu với cây xanh mà không lo ốt dột với người đời. Đây ngoại ô, những trầm mặc cá nhân không bị quy chụp là diễn sâu hay làm kiểu, nếu có nỗi buồn nào đến từ thực hay mơ, người cũng mong ở lại mãi mãi.
Trà đã ngấm, nhạc Thiền rủ rĩ ngân lên, mùi nhang trầm lặn sâu vào không gian và miếng vải hoa trải bàn. Thơm tho. Thanh thản. Khói trầm nghi ngút, bám vào tóc rối, làm đục mờ đôi mắt trong ít phút, tuồng như một chớp nhoáng rải bùa. Một mình một bàn, xung quanh không có ai, chủ quán lúi húi ở trong cũng vì không muốn đi qua đi lại phiền mắt nhìn của khách. Cô đơn, tự do, đầy đủ. Xin thêm bất cứ điều gì lúc ấy cũng là tham lam. Muốn trú ngụ nỗi buồn ở đây. Không điện thoại. Không email. Không họ hàng làng xã. Lặng im. Chìm nghỉm. Để hồi vị những thứ tưởng như đã tận tàn. Nó gợi nhớ đến những buổi chiều ở Phó Bảng, được nghe tiếng hát mộng mị của Ly, trong màu chiều đương ráng, đỏ ối nhưng câm lặng. Nơi ấy có những người đàn bà ngày ngày chăm con riêng của chồng bằng bàn tay chai sần dày cộp như miếng cháy trong nồi cám và khi cần thì vẫn giương bầu vú chưa bao giờ có sữa cho chúng nhay rứt đến rỉ máu. Trong một góc khuất kín của đồng rừng, những khát vọng sống tựa như chiếc váy thêu sặc sỡ bảy màu, dù có bị cất giấu kỹ nơi đáy tủ thì vẫn biết cách để phát đi những tín hiệu sống mãnh liệt nhất. Phút chốc, ùa vạt tóc ra trước, cốt để che mặt mình, cụp mắt cái rụp, vì tự dưng thấy chán ngán mặt người, chán ngán những phát âm và tiếng động. Đúng hơn, chán chính mình.
Phải rất lâu mới nhận ra, tâm hồn cũng giống như cái bồn rửa bát, chỉ khi dọn dẹp sạch sẽ thì mới nhẹ nhàng được. Không phải giác ngộ, sám hối hay thiền tịnh gì cao xa, chỉ là buông bỏ những cái không cần thiết. Xưa nhớ, có lần đi cafe một mình, chỗ đó mở nhạc bằng loa cổ hình hoa loa kèn, bên cạnh cũng là một bình loa kèn đẹp như mộng. Hồi đó tháng Tư trong xanh, lác đác lá rụng. Nguyên Thảo hát Phạm Duy. Quý giọng Thảo lắm. Chính xác là si. Si đổ cành gãy lá, từ dạo tình cờ nghe Thảo hát Tóc em chưa úa nắng hè, nhưng phải đến Nếu một mai em sẽ qua đời thì mới chính thức chết đứ đừ. Với cả, Thảo không ồn ào, không tuyên ngôn, không thuộc về đời sống showbiz. Chỉ lặng lẽ hát. Cũng chỉ lặng lẽ xuất hiện trong những show nhạc đẳng cấp, còn lại vì nể người này người kia mà nhận hát. Tiếng hát cho tôi tự nhận chắc chắn về mình một chân dung độc, tĩnh và cháy bỏng ẩn ngầm. Đơn giản, để có thể riêng tư và là mình trong âm nhạc, người ta đã phải tự dàn xếp và phớt lờ nhiều cái chừng như không liên quan. Từ đó, họ tự ghi chép mình, lụy mình, cười khóc mình. Và cũng tự ruồng bỏ mình.
Bỗng dưng thèm một điếu Richmond. Lâu rồi không hút thuốc. Tối qua đi ăn về thấy quán đó thắp nến trong mưa mù tối ẩm mà thích quá. Ngồi đó một mình nghe nhạc và nhấp ngụm cafe thì hay lắm đấy. Có tí khói thuốc nữa càng hay. Kỳ thực, chỉ thích ngồi một mình.
Chủ quán trà ra vườn bới về một thúng lá, nhóm bếp nổi lửa đun nước buổi chiều. Bếp nằm ngoài cửa, bên phải lối đi vào nhà, chiếc gác-măng-rê im lìm trong góc, chờ Tết tới lần hồi. Mùi lá nhãn thơm kiểu đồng đất ruộng vườn, muốn thửa vào lọ để mang về ngửi riêng. Khói bếp bay lên, đánh thức cơn ngái ngủ buổi chiều của những bàn ghế, gốm sứ, hoa lá vây quanh. Nó trùm mình lên từng tấm gỗ mối mọt, khay chén cũ kỹ, cả những đóa hoa khô chờ người rũ bụi. Nó khiến những mục ẩm trở mình trỗi dậy, khát ngày nắng lên. Làn khói lẳng lặng trôi vào nhà trong, phả một màn sương bông vào ánh điện màu vàng đục và bình cúc trắng, chiếm hữu ngôi nhà một cách không khoan nhượng. Từ ngoài nhìn vào, trong ánh sáng tối giản và sự ngự trị của đồ gỗ, thấy thế giới thu gọn trong một làn khói trắng, bảng lảng, huyền hồ như được rơi ra từ đêm. Tôi nhìn trộm người đốt lá, và ngoảnh đi rất nhanh trước khi bị bắt gặp. Chiếc điện thoại ba lần rút ra rồi lại nhét vào túi vì không lỡ phát ra âm thanh khi chụp để bị gây chú ý. Cứ thế, vừa dấm dúi vừa hân hoan. Con người không có chỗ để chen vào một câu, chỉ mải miết nhìn ngắm và đối thoại trong im lặng. Đã từng rất nhiều lần tự tay đốt lá, cũng từng nhiều lần được chìm vào làn khói đồng nhưng chưa bao giờ thấy khói mê hoặc đến vậy. Lại là một làn khói đốt lá khỏa ra giữa không gian của một quán trà ngoại ô, khách khứa rất ít và hầu như chẳng có một cuộc nói chuyện nào. Tất cả là lời của lặng im.
Thoáng bóng thạch thảo, hình như đã qua ngày rực rỡ, giờ đang ngả úa sang tàn. Vạt bồ hóng từ gác bếp sánh đặc trên ngói cót, nhếch nhác nhưng lại đầy gợi cảm. Nến chiều đã thắp, tỏa ánh sáng như muốn thiêu rụi những han gỉ trên song sắt. Ngồi ở đây, chợt nhớ cái cách Khê chơi một khúc trong concerto của Bruch giữa xa xăm hôm nào, buông lỏng, thăng hoa, màu mahogany từ chiếc violin cho cô ấy biết, mọi thứ đã đi quá xa sự héo tàn ảm đạm mỗi ngày.
Thoáng chốc nhận ra, dường như chúng ta có mặt trên đời này là để thi nhau tốc độ chôn cất nỗi chán chường. Ai sung sướng hơn ai, ai đau khổ hơn ai. Ai xấu xa, ai lương thiện. Mấy điều ấy rạch ròi cũng chẳng để làm gì. Rút cuộc, tài sản lớn nhất trong cuộc đời của một con người, không phải tiền bạc, không phải đất cát nhà cửa, mà chính là hồi ức.
Khi ở trong hồi ức, người trong sáng với buồn vui của mình. Không liên quan đến bất cứ một sự gánh vác hay bố trí mang tính xã hội nào. Chỉ chăm chăm tàng trữ nó như một thứ đồ cổ, gói ghém kỹ lưỡng, cẩn thận. Muốn nó mãi mãi mộc mạc và chứa mùi cây cỏ. Như một mái tóc đen nhánh. Không uốn nhuộm, không là ủi, không cắt tỉa. Chỉ để đen nhánh, mọc tự nhiên. Đêm đêm, lén lút rót nó ra như một ly rượu nho, có thể nhấm nháp hoặc tu ừng ực cho cạn ráo.
Rồi từ đó, chậm rãi trầm mình chìm xuống. N.Hcửa, bên phải lối đi vào nhà, chiếc gác-măng-rê im lìm trong góc, chờ Tết tới lần hồi. Mùi lá nhãn thơm kiểu đồng đất ruộng vườn, muốn thửa vào lọ để mang về ngửi riêng. Khói bếp bay lên, đánh thức cơn ngái ngủ buổi chiều của những bàn ghế, gốm sứ, hoa lá vây quanh. Nó trùm mình lên từng tấm gỗ mối mọt, khay chén cũ kỹ, cả những đóa hoa khô chờ người rũ bụi. Nó khiến những mục ẩm trở mình trỗi dậy, khát ngày nắng lên. Làn khói lẳng lặng trôi vào nhà trong, phả một màn sương bông vào ánh điện màu vàng đục và bình cúc trắng, chiếm hữu ngôi nhà một cách không khoan nhượng. Từ ngoài nhìn vào, trong ánh sáng tối giản và sự ngự trị của đồ gỗ, thấy thế giới thu gọn trong một làn khói trắng, bảng lảng, huyền hồ như được rơi ra từ đêm. Tôi nhìn trộm người đốt lá, và ngoảnh đi rất nhanh trước khi bị bắt gặp. Chiếc điện thoại ba lần rút ra rồi lại nhét vào túi vì không lỡ phát ra âm thanh khi chụp để bị gây chú ý. Cứ thế, vừa dấm dúi vừa hân hoan. Con người không có chỗ để chen vào một câu, chỉ mải miết nhìn ngắm và đối thoại trong im lặng. Đã từng rất nhiều lần tự tay đốt lá, cũng từng nhiều lần được chìm vào làn khói đồng nhưng chưa bao giờ thấy khói mê hoặc đến vậy. Lại là một làn khói đốt lá khỏa ra giữa không gian của một quán trà ngoại ô, khách khứa rất ít và hầu như chẳng có một cuộc nói chuyện nào. Tất cả là lời của lặng im.
Thoáng bóng thạch thảo, hình như đã qua ngày rực rỡ, giờ đang ngả úa sang tàn. Vạt bồ hóng từ gác bếp sánh đặc trên ngói cót, nhếch nhác nhưng lại đầy gợi cảm. Nến chiều đã thắp, tỏa ánh sáng như muốn thiêu rụi những han gỉ trên song sắt. Ngồi ở đây, chợt nhớ cái cách Khê chơi một khúc trong concerto của Bruch giữa xa xăm hôm nào, buông lỏng, thăng hoa, màu mahogany từ chiếc violin cho cô ấy biết, mọi thứ đã đi quá xa sự héo tàn ảm đạm mỗi ngày.
Thoáng chốc nhận ra, dường như chúng ta có mặt trên đời này là để thi nhau tốc độ chôn cất nỗi chán chường. Ai sung sướng hơn ai, ai đau khổ hơn ai. Ai xấu xa, ai lương thiện. Mấy điều ấy rạch ròi cũng chẳng để làm gì. Rút cuộc, tài sản lớn nhất trong cuộc đời của một con người, không phải tiền bạc, không phải đất cát nhà cửa, mà chính là hồi ức.
Khi ở trong hồi ức, người trong sáng với buồn vui của mình. Không liên quan đến bất cứ một sự gánh vác hay bố trí mang tính xã hội nào. Chỉ chăm chăm tàng trữ nó như một thứ đồ cổ, gói ghém kỹ lưỡng, cẩn thận. Muốn nó mãi mãi mộc mạc và chứa mùi cây cỏ. Như một mái tóc đen nhánh. Không uốn nhuộm, không là ủi, không cắt tỉa. Chỉ để đen nhánh, mọc tự nhiên. Đêm đêm, lén lút rót nó ra như một ly rượu nho, có thể nhấm nháp hoặc tu ừng ực cho cạn ráo.
Rồi từ đó, chậm rãi trầm mình chìm xuống.
N.H
(SHSDB28/03-2018)
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.
PHẠM THỊ CÚC KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.
THÁI VŨ Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.
PHƯƠNG HÀ (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.
PHẠM THỊ CÚC Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…
LÊ VĨNH THÁI Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.
TRƯƠNG ĐÌNH MINH Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.
TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.
PHẠM THỊ ANH NGA Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.
TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.
CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...
NGUYỄN HỮU THÔNG Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)
PHAN TÂM (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.
LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách