Chiếc xe tay và những phận đời

09:10 22/11/2016

Một lần vào kho đạo cụ của Hãng phim truyện VN, tôi kéo thử chiếc xe kéo tay (thường gọi là xe tay) được phục chế nguyên bản để làm phim. Chỉ một đoạn tôi đã toát mồ hôi vì nó quá nặng, và chợt ngẫm đến thân phận những người phu xe.

Người phu bên chiếc xe tay. ẢNH: T.L

Uống nước sái thuốc phiện để có sức kéo

Phương tiện giao thông của thị dân Hà Nội cuối thế kỷ 19 là xe ngựa, cáng (như cáng cứu thương ngày nay do 2 người khiêng, khách đi xa có thêm 2 người nữa để thay phiên nhau khiêng), xe bò đẩy (xe bằng gỗ có 1 bánh, hai càng do một người kéo một người đẩy). Quan phủ oai hơn, đi công cán họ ngồi võng hay kiệu, có lính khiêng.

Khi Pháp chiếm Hà Nội, năm 1883, xe ngựa không thể chở người Pháp đi lại trong phố vì đường chật chội do hàng quán lấn chiếm. Họ cũng không thể ngồi cáng vì sức hai người Việt chỉ khiêng ông Tây một đoạn là phải nghỉ. Lại càng không thể ngồi xe đẩy vì chỗ ngồi không đủ rộng cho mông ông Tây bè bè.

Người Pháp loay hoay tìm kiếm một phương tiện khác giúp họ dễ dàng di chuyển nhưng chưa được. Năm 1884, Công sứ Hà Nội là Bonnal sang Nhật và ông này đã mang về 2 chiếc xe tay. Xe Bonnal mang về là xe hòm, bánh bằng sắt. Nhiều công chức Pháp cũng muốn có xe riêng đi làm, vợ con họ cũng muốn có một cái đi chợ. Nắm được nhu cầu ấy, viên quan thuế nghỉ hưu Leneven đã nhập xe từ Nhật và Hồng Kông về cho thuê. Từ đó sinh ra phu xe, phần lớn ở quê ra.
 
Chiếc xe tay và những phận đời - ảnh 1

Leneven cho phu ăn mặc như lính triều đình: quần túm ống, quấn xà cạp, đội nón chóp. Vì bánh sắt nên trọng lượng của xe rất nặng, nhất là với phu trung tuổi; có ông Tây to béo khiến phu phải lấy hết sức ghìm càng xe xuống đất. Kéo cuốc xe được mấy xu mà bã người. Và trong cuốn hồi ký Đông Dương ngày ấy 1898 -1908, viên quan thuế Claude Bourrin từng sống ở Hà Nội kể lại chuyện ông ta phát hiện ra phu kéo xe tay trung tuổi phải uống nước có sái thuốc phiện mới đủ sức kéo.

Thấy xe nhập quá đắt, năm 1890, Công ty Verneuil et Gravereand ở phố Rialan (nay là Phan Chu Trinh) đã tự sản xuất xe. Họ làm xe bánh sắt và xe bánh bọc cao su. Xe bánh sắt giá rẻ bán cho các tỉnh quanh Hà Nội. Để xe nhẹ bớt, công ty này tiếp tục cải tiến, chỗ ngồi thấp hơn, có dù che nắng mưa, bánh sắt được thay bằng cao su đặc nên đi êm hơn, nhẹ hơn. Tuy nhiên khung xe làm bằng gỗ tốt, càng xe vẫn dài nên xe vẫn nặng, để có sức kéo, phu lớn tuổi vẫn phải uống nước sái thuốc phiện.

Ngồi xe tay ban đầu là người Pháp, công chức, nhà giàu và me Tây. Sợ thiên hạ nghĩ mình là me Tây, con gái nhà lành không dám ngồi xe này. Sau này, các cô mới sử dụng mà cũng chỉ đi xe bánh sắt để phân biệt với đám me Tây chuyên đi xe bánh cao su.

Việc mở mang các tuyến đường giao thông được chính quyền thành phố làm khá nhanh, tính đến ngày 1.1.1902, Hà Nội có 52 km đường, trong đó hơn 10 km đã rải đá và đây là yếu tố làm tăng nhanh số xe kéo tay. Theo báo cáo thông qua quyết toán thuế do Đốc lý Baille ký ngày 10.1.1902, số tiền thuế xe tay thành phố thu được năm 1897 là 26.530 đồng, năm 1898 là 32.165 đồng, năm 1899 là 40.450 đồng và năm 1901 là 43.370 đồng. Trước đó, ngày 15.3.1892, Đốc lý Beauchamp ký mức thuế 1 năm cho một chiếc xe tay là 60 đồng. Năm 1897 Hà Nội có 442 xe và đến năm 1901 là 728 chiếc. Thu thuế xe tay còn cao hơn 2 lần rưỡi thuế đánh vào lò mổ và kém tí chút thuế chợ. Cho thuê xe tay phất nhanh nên nhiều chủ người Việt lao vào mở hiệu và sản xuất như: Hữu Tam Đồng ở Hàng Buồm, Nguyễn Huy Hợi ở phố Hàng Chiếu. Khi Bưu điện Hà Nội có bưu chính, bưu tá nhận thư từ trung tâm là có xe tay đưa đi các phố giao.

Phóng sự tôi kéo xe rúng động Hà Thành

Đầu những năm 1930, giao thông công cộng Hà Nội thay đổi đáng kể, đường xe điện kéo dài hơn, số xe hơi và xe đạp tăng lên. Thế nhưng, số xe tay vẫn lên tới gần 3.000 chiếc. Công việc của phu xe nặng nhọc nhưng thu nhập lại không đáng là bao, bị chủ xe ăn hết. Từ phu chuyên nghiệp thuê cả ngày đến kẻ làm thêm chỉ thuê vài tiếng đều phải trả tiền trước. Trả chậm vài phút bị phạt, xe va quệt phải đền rất cao nên nhiều phu chạy quanh năm không trả hết nợ. Cực khổ mà chẳng biết kêu ai.
 
Chiếc xe tay và những phận đời - ảnh 2

Năm 1931, một phu xe đang chở khách đuối sức đã gục chết giữa đường. Chuyện đó khiến trái tim nhà báo Tam Lang rung động. Ông quyết định thuê xe đóng vai phu để viết lên sự thật. Nhiều lúc ông chạy cả đêm để hiểu kiếp phu xe nhọc nhằn, khốn nạn thế nào. Ông kéo xe đến phố “Vợ Tây” (phố có nhiều phụ nữ Việt lấy lính và sĩ quan Pháp đóng trong thành, nay là Phó Đức Chính) chầu chực chở khách đi chợ. Ông cũng lăn lộn ở xóm Bãi Cát (khu vực An Dương và Phúc Xá hiện nay) nơi có nhiều phu thuê trọ để tìm hiểu. Và ông đã phát hiện họ thường xuyên phải vay nặng lãi trả tiền thuê xe. Ông cũng tận mắt chứng kiến phu chết mà những kẻ trọ cùng không biết chôn ở đâu vì không có tiền mua đất, đành vùi xuống dải cát ven sông Hồng chờ nước dâng lên cuốn xác đi. Và rồi vợ họ đẻ con không làm được khai sinh, người lớn không giấy tờ. Phóng sự điều tra Tôi kéo xe được đăng tải trên Hà Thành ngọ báo năm 1932 đã thức tỉnh những người có lương tâm trong xã hội lúc bấy giờ. Phu xe kéo tay cũng trở thành đề tài cho nhiều nhà văn và tiêu biểu là truyện ngắn Người ngựa, ngựa người của Nguyễn Công Hoan đăng báo lần đầu tiên cũng trong năm này gây chấn động như phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang.
 
Dưới bút danh Nguyễn Bách Khoa, Trương Tửu nhận định trên báo Loa: “Tôi kéo xe được Tam Lang thu góp chất liệu sống cực khổ, nhọc nhằn của phu xe kéo”. Còn Hoài Thanh viết trên Tiểu thuyết thứ bảy: “Tôi kéo xe vẫn là tập phóng sự giá trị. Tác giả đã làm cho ta nghe thấy những điều ở ngay trước mắt ta, bên tai ta, mà ta không nghe thấy…”.
 
Hơn 10 năm sau khi phóng sự Tôi kéo xe ra đời, Hà Nội không còn bóng dáng xe tay. Ngay sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời ngày 2.9.1945, một sắc lệnh xóa bỏ xe tay được chính phủ lâm thời ban hành, chấm dứt hoàn toàn phương tiện mà Công sứ Bonnal gọi là “Văn minh phương Đông” sau nửa thế kỷ tồn tại.

Nguồn: NV Nguyễn Ngọc Tiến - TNO



 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐÌNH CHI
                        Hồi ký

    KỶ NIỆM 102 NĂM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 19-5-1890 _ 19-5-1992.

  • THÁI VŨ

    Nguyễn Phúc Đảm (sau này là vua Minh Mạng), sinh năm 1791 tại Gia Định, là con trai thứ 4 của Vua Gia Long, Nguyễn Phúc Ánh, nối ngôi vua năm 1820 lúc 30 tuổi.

     

  • TỪ HỒNG QUANG     

    Thông thường, khi vui người ta nghĩ đến những điều vui và kể lại cho bạn bè nghe. Nhưng ông cha ta có câu: “Không ai nắm chặt tay từ sáng đến tối”. Lại có câu: “Bảy mươi chưa hết què, chớ khoe mình lành”.

  • ĐÔNG HÀ   

    Tôi không biết từ đâu, tôi lại tha thiết yêu những câu hát đẹp như mơ được cất lên từ chị, có khi mưa ngoài trời là giọt nước mắt em đã nương theo vào đời làm từng nỗi ưu phiền

  • HÀ KHÁNH LINH

    Theo hẹn, tôi đến trước vài phút ngồi ở salon khách sạn Hương Giang - lơ đãng nhìn những người đi lại trong hành lang.

  • TRẦN NGỌC TRÁC

    Như duyên nợ, chúng tôi đã đồng hành cùng nhau qua series ký sự “Trịnh Công Sơn nhẹ gót lãng du”(1).

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Vào đúng 9 giờ đêm 26 tháng 3 năm 1975, chúng tôi vui sướng đến nghẹn ngào nhận tin vui Huế đã được giải phóng qua sóng phát thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam phát thanh từ Hà Nội. Tiếp đến là mệnh lệnh tất cả sẵn sàng hành quân về Huế. Không ai không mong chờ niềm vui ấy, nhưng những người lính quê Thừa Thiên, trong đó có tôi đều vui mừng vì sắp được trở lại quê nhà!

  • PHI TÂN

    1.
    Buổi chiều trên đường đi làm về thấy một chị phụ nữ bày bán những con heo đất bên vỉa hè màu xanh, đỏ, vàng, cam nhìn thật vui mắt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Hồi ức làm ta muốn khóc...
                            (Vasiliev)

  • TRẦN VIẾT ĐIỀN

    Vua Minh Mạng có 78 hoàng tử, được giáo dưỡng đàng hoàng, hầu hết các hoàng tử có học hạnh, hoàng trưởng tử trở thành vua hiền Thiệu Trị, một số trở thành vương công nổi tiếng như Thọ Xuân vương, Tùng Thiện vương, Tuy Lý vương…

  • NGUYỄN NHÃ TIÊN   

    Chưa bao giờ tôi được lội bộ đùa chơi với cỏ thỏa thích như bao lần khai hội Festival ở Huế. Đêm, giữa cái triều biển người nối đuôi nhau từ khắp các ngả đường hướng về khu Đại Nội, tôi và em mồ hôi nhễ nhại, hai đôi chân rã rời, đến nỗi em phải tháo giày cầm tay, bước đi xiêu lệch.

  • HÀ KHÁNH LINH   

    Bão chồng lên bão, lũ lụt nối tiếp lũ lụt. Miền Trung Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng chưa bao giờ phải hứng chịu thiên tai dồn dập khủng khiếp đến mức chỉ trong vòng trên dưới một tháng mà có đến sáu cơn bão mạnh với hai áp thấp nhiệt đới, đã cướp đi nhiều sinh mạng và xóa sạch tài sản của những con người suốt một đời chắt chiu dành dụm xây cất lên...

  • PHẠM XUÂN PHỤNG

    Một buổi chiều năm 1968, chúng tôi nhận lệnh tập trung tại một khu vườn thuộc làng (nay là phường) Kim Long.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Mười năm trước đây, một sự kiện văn hóa diễn ra tại Huế đã khiến nhiều người ngạc nhiên và tự hào: Huế từng có Nhà xuất bản Tinh Hoa xuất bản các ấn phẩm âm nhạc sớm nhất toàn cõi Đông Dương, sự kiện Gala Tinh Hoa - Sông Hương nhằm tôn vinh Nhà xuất bản Tinh Hoa. Sự kiện đó đã làm rung động nhiều trái tim yêu âm nhạc, nhất là những ai mê lịch sử Tân nhạc Việt Nam.

  • HÀ LÂM KỲ

           Hồi ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ

    Tôi vốn là người lính. Sau Mậu Thân 1968, một số phóng viên báo Cờ Giải Phóng - Huế hy sinh, một số bị thương ra Bắc, tôi được thành đội trưởng Huế cử biệt phái sang làm phóng viên báo Cờ Giải Phóng, sau mấy năm thì trở thành phóng viên thật sự.

  • Kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế (18/9/1945 - 18/9/2020)

    DƯƠNG PHƯỚC THU

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    "Đồng Khánh - mái trường xưa" là tên tập đặc san được phát hành tại Huế nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập trường Đồng Khánh vào đầu tháng ba này.

  • Kỷ niệm 75 năm Cách mạng tháng Tám (19/8/1945 - 19/8/2020) và Quốc khánh (2/9/1945 - 2/9/2020)    

    DƯƠNG HOÀNG