Nhà văn Irving Stone - Ảnh: philipross.com
Chàng thủy thủ trên lưng ngựa Ngày 16 tháng Giêng năm 1899, một bức thư mời Jack London đến làm việc tại Sở Bưu điện. Công việc sẽ ổn định cho cả đời chàng. Chàng sẽ sống sung túc, sẽ có được bộ cánh mới chứ không phải bộ quần áo cũ mua lại; thật là một cuộc sống an nhàn hiếm có mà chàng thanh niên 23 tuổi ấy chưa bao giờ dám mơ tưởng. Chàng có thể mua sách báo mà chàng đang khao khát muốn đọc. Chàng sẽ có thể chăm sóc mẹ già và nếu Mabel đồng ý thì hai người có thể làm lễ thành hôn ngay được. Jack và mẹ chàng đã nhìn thẳng vào vấn đề. Nếu chàng cứ tiếp tục sáng tác thì cả hai mẹ con sẽ phải chịu thêm nhiều năm gian khổ nữa. Nhưng nếu chàng làm nhân viên bưu điện thì thử hỏi cuộc sống sung túc, áo nọ quần kia, cùng những sách báo ấy phỏng có ích gì? Chàng sinh ra đời không phải chỉ để ăn, để mặc, để đọc cho vui. Chàng có mặt trên thế gian này là để sáng tác, để đóng góp những câu chuyện tuyệt vời vào kho tàng văn học. Chàng có thể chịu đựng được những nỗi thiếu thốn của người nghệ sĩ, vì chàng sẽ được hưởng thú say sưa trong công việc sáng tác của mình, thú say sưa này sẽ làm cho tất cả những thú vui khác có thể có được như ăn mặc, hoặc của cải vật chất trở nên nhàm chán, tầm thường, và vô vị. Và mẹ chàng đã khẳng định với chàng rằng chàng phải tiếp tục viết, rằng lúc nào trong tim chàng cũng phải tâm tâm niệm niệm là mình phải thành công, và rằng bà sẽ luôn luôn có mặt ở bên cạnh để cổ vũ cho chàng, cho dù phải tốn thêm bao nhiêu thời gian đi nữa. Như vậy, giờ đây vấn đề đã được quyết định dứt khoát rồi! Jack lao vào công việc với tất cả nhiệt tình hừng hực của bản chất cương quyết của chàng. Để có thể trở thành một nhà văn, chàng cần phải có hai điều: tri thức và khả năng sáng tác. Jack biết nếu suy nghĩ trong sáng thì chàng sẽ viết được rõ ràng, vì nếu chàng học không ra gì, nếu những ý tưởng của chàng lộn xộn, lung tung thì chàng làm thế nào có được cách diễn đạt trong sáng chứ? Và rằng nếu những ý tưởng của chàng có giá trị thì sáng tác của chàng cũng sẽ có giá trị. Jack biết rằng chàng phải đi sâu vào nhịp sống, rằng toàn bộ kiến thức sống của chàng sẽ là triết lý sống để chàng căn cứ vào đó mà cân đong và đo đếm, đánh giá và lý giải thế giới. Jack cảm thấy rằng chàng phải tự mình nghiên cứu lịch sử, sinh học, quá trình tiến hóa, kinh tế học và hàng trăm ngành học vấn khác vì chúng sẽ mở rộng tầm mắt của chàng, đẩy lui những giới hạn của lĩnh vực mà chàng sẽ viết. Chúng sẽ tạo cho chàng một triết lý sống không giống triết lý của bất cứ một ai và buộc chàng phải có tư duy độc đáo, khiến chàng có được những điều mới mẻ, đầy sinh khí cho những ai đã nghe chán chuyện đời rồi. Jack không hề có ý định viết những chuyện vụn vặt, tạo ra những viên thuốc bọc đường cho những con người đầu óc đã mụ mẫm, u mê. Thế là Jack London tấn công thẳng vào sách báo, bao vây thành trì của trí tuệ. Jack không phải là chàng thư sinh học gạo nhằm mục đích thi cho đậu. Jack cũng không phải là một khách qua đường lơ đãng hơ tay sưởi ấm trước lò sưởi tri thức. Jack là một con người theo đuổi một cách đam mê. Đối với Jack, mỗi một sự việc biết được, mỗi một lý thuyết mới tiếp thu được, mỗi một quan niệm cũ đem thử thách và một quan niệm mới thâu lượm được, tất cả đều là một chiến thắng của cá nhân, một lý do để phấn khởi, vui mừng. Chàng thắc mắc, chàng tập hợp sưu tầm, chàng bác bỏ, đưa tất cả những gì chàng đọc được ra phân tích, kiểm tra. Chàng không mù quáng hoặc run sợ trước danh tiếng. Những tâm hồn vĩ đại không hề gây cho chàng một ấn tượng gì trừ phi họ có thể cung cấp cho chàng một tư tưởng vĩ đại. Những ý tưởng thông thường, có tính chất rập khuôn công thức, có ý nghĩa rất ít đối với con người này, một người đã từng phá vỡ mọi qui ước chàng gặp. Chàng là người chân thật, can đảm, có tư duy thẳng thắn và ấp ủ một tình yêu nồng nàn đối với chân lý - đó là bốn điều không thể thiếu được đối với một nhà nghiên cứu. Tuy được học ít, Jack London cảm thấy rằng mình là một chàng sinh viên tự nhiên. Giáo dục đối với chàng dường như một phòng hải đồ trên tàu biển. Chàng không hề run sợ trước những cuốn sách chưa hề đọc, chàng biết mình không thể lạc lối một cách dễ dàng và chàng cũng đã dành đủ thời gian làm việc trong phòng đó vì chàng biết quá rõ chàng cần phải khám phá ra những bến bờ đại dương nào. Khi chàng kiếm được một cuốn sách, chàng không hề dùng một dụng cụ tinh vi nào để nạy khoá mở nó ra rồi nhót lấy những gì đựng bên trong. Khi Jack sắp đọc một cuốn sách mới mà chàng kiếm được trên bước đường lãng du của mình thì cũng giống như một con thú dữ say mồi, một con sói háu đói vồ mồi: Chàng cắn ngập cổ con mồi sách, nhay nhay nó một cách dữ dội cho đến khi con mồi chịu khuất phục, rồi hút cạn máu nó, ngốn ngấu thịt da nó, nhai xương cốt nó rau ráu, cho đến khi mỗi đường gân thớ thịt của con mồi sách ấy biến thành một phần máu thịt của chàng, tạo nên sinh lực cho chàng. Jack ghi chép cẩn thận tất cả mọi điều chàng đọc được và đã thực hiện một hệ thống phiếu ghi để khi nào cần là chàng có ngay tư liệu cho mình. Jack đã từng ngồi hàng giờ liền ở phòng đọc thư viện nghiên cứu sách báo đương thời một cách có phê phán. Đối với Jack, một trong những thứ vĩ đại nhất trên đời là từ ngữ, những từ đầy nhạc tính, những từ đẹp đẽ, những từ khoẻ, sắc và sâu. Jack đọc những tập sách dày cộp, uyên thâm, luôn luôn với cuốn từ điển trong tay. Jack ghi lại các từ ngữ mới lên những tờ giấy rồi găm chúng ở khe gương trong phòng làm việc nơi chàng có thể ghi nhớ chúng khi cạo mặt, lúc mặc áo quần. Jack treo danh sách các từ ngữ lên dây phơi bằng những kẹp quần áo, để mỗi khi ngẩng nhìn lên, chàng có thể nhận thấy ngay các từ mới cùng với các nghĩa của chúng. Jack nhét các bảng từ ở trong túi, đọc lại chúng trên đường đi đến thư viện, lẩm nhẩm lại chúng khi ngồi vào bàn ăn, hoặc lúc dọn giường đi ngủ. Rồi mỗi khi trong một truyện ngắn chàng cần một từ chính xác nào đó và từ hàng trăm những bảng từ ấy bật ra được một từ có sắc thái với ý nghĩa đúng như chàng mong muốn, thì Jack cảm thấy rộn ràng, sung sướng đến run bắn người lên. Thời gian, ôi thời gian! Thời gian chính là lời than vãn bất tận của chàng, thời gian để học, để làm chủ kỹ năng. Nó vượt lên trên cả cảnh túng tiền mua thức ăn hoặc tiền nhà đang thúc sau lưng chàng. Ngày không đủ số giờ Jack cần để làm tất cả mọi việc mà chàng mong muốn. Nếu chàng phải dứt mình khỏi công việc sáng tác để nghiên cứu, nếu chàng phải dứt mình khỏi công việc nghiên cứu nghiêm túc để đi đến thư viện đọc sách báo, nếu chàng phải rời phòng đọc thư viện để đến thăm Mabel là lúc duy nhất trong ngày Jack cho phép mình được nghỉ ngơi giải trí, thì than ôi, chàng đã phải nuối tiếc, ân hận biết bao nhiêu! Điều khó nhất trên đời đối với Jack là phải gạt sang một bên những cuốn sách đang đọc dở, cây bút chì đang ghi chép, để rồi nhắm nghiền đôi mắt đang đọc hăm hở ấy để ngủ! Do nhiệt tình vĩ đại của mình, Jack chỉ cho phép mình được ngủ năm giờ một đêm mà thôi. Chàng ghét cay ghét đắng cái ý nghĩ phải tạm ngưng “việc sống”, dù chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy thôi; và niềm an ủi duy nhất đối với chàng là chiếc đồng hồ báo thức đã được đặt báo trước năm tiếng đồng hồ và rồi khi tiếng chuông leng keng lay gọi chàng tỉnh giấc mơ màng, lúc đó chàng sẽ lại có được trước mắt mình cả mười chín tiếng đồng hồ mê ly nữa để làm việc. Jack London, ôi một tâm hồn say mê, một trái tim rực cháy! ĐIỀN THANH (sưu tầm và giới thiệu theo bài trích nguyên bản tiếng Anh trong cuốn “Sailor on Horseback” của Irving Stone) (260/10-10) |
LTS: Butribabu tên thật là Sivarazu Vencata Xubarao (1916 - 1967) là một nhà văn lớn của Ấn Độ, tác giả của tiểu thuyết nổi tiếng “Còn lại gì?” và 10 tập truyện ngắn trong đó tập đầu tay “Năm truyện ngắn” xuất bản năm 1933. Ông sáng tác bằng tiếng Telugu truyện ngắn “Khasima Bi” in trong tập “Tuyển tập sáng tác của các nhà văn Nam Á” của nhà xuất bản “Văn học”, Mat-xcơva, 1980.
LGT: R. Grossmith sinh năm 1954 ở Dagenham thuộc London, nhận bằng tiến sĩ với luận án về Nghệ thuật tiểu thuyết của Vladimir Nabokov và hiện sống ở Glasgow, nơi ông làm việc biên soạn tự điển.
L.T.S: Nikom Rayawa là nhà văn trẻ sinh ở một làng phía Bắc thủ đô Băng Cốc. Nikom Rayawa thuộc phái văn học "Trăng lưỡi liềm" có xu hướng nhân bản và tự do.
Lỗ Tấn là nhà văn hiện đại Trung Quốc rất đỗi quen thuộc với bạn đọc Việt Nam. Ông quê ở Thiệu Hưng, Triết Giang, sinh ngày 25 tháng 9 năm 1881, mất ngày 19 tháng 10 năm 1936. Năm nay là năm kỉ niệm 130 năm ngày sinh và 75 năm ngày mất của ông.
William Butler Yeats (1865 - 1939) là nhà thơ và kịch tác gia lớn của Ailen, sinh ở Dublin. Cùng với T.Eliot, Yeats đã cách tân nền thơ Anh và Ailen. Được giải thưởng Nôbel năm 1923. Sáng lập Hội Văn học Ailen và Nhà hát Quốc gia Ailen.
LGT: O. Henry là bút danh của William Sydney Porter. Ông sinh năm 1862 và mất năm 1910, cùng năm qua đời của Mark Twain.
LGT: James Ross là nhà văn đương đại của Anh. Ông là một trong số những thành viên của trường phái Không Tưởng. James sống trong một căn nhà cũ, viết bên một chiếc bàn cũ bằng một chiếc máy tính xách tay giá rẻ, theo như lời ông nói. James Ross bắt đầu cầm bút từ năm 1996, cho đến nay đã viết hàng loạt truyện ngắn mang phong cách riêng, đậm chất huyền ảo và giả tưởng.
Mia Couto sinh ngày 5 tháng 7.1955 tại Beira, Mozambique. Ông là nhà văn Mozambique nổi tiếng. Các tác phẩm của ông viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, đã được dịch rộng rãi ra nhiều thứ tiếng và được in ở trên 22 quốc gia. Truyện ngắn dưới đây được David Brookshaw dịch từ tiếng Bồ Đào Nha sang tiếng Anh. Bản tiếng Việt theo David Brookshaw.
LGT: Ngày nay, khi văn học dần rời xa đại tự sự mà thay vào đó là sự lên ngôi của tiểu tự sự thì truyện cực ngắn là một trong những thể loại được người sáng tạo và người đồng sáng tạo quan tâm. Tuy nhiên cho đến nay thì dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất cho cái gọi là “truyện cực ngắn”. Truyện cực ngắn còn được biết đến dưới nhiều dạng thức định danh như “truyện chớp” (flash fiction), “truyện bất ngờ” (sudden fiction), “vi truyện” (micro fiction)...
L.T.S: Kurt Kusenberg (1904-1983), sinh ở Göteborg, Thụy Điển, mất tại Đức. Giám đốc văn học suốt ba mươi năm tại một nhà xuất bản trong nước và chủ biên một loại sách viết riêng về các triết gia, bác học và nhà văn. Tác giả của nhiều truyện kể mang màu sắc kỳ dị.
L.T.S: Miguel Rojas Mix, sinh năm 1934 tại thủ đô Chi-lê. Giám đốc viện Nghệ thuật châu Mỹ La tinh thủ đô San Chiago. Bỏ Chi lê sang Pháp dạy học ở Đại học Paris VIII. Viết tiểu luận, truyện ngắn, sách thiếu nhi. “Bàn tay Chúa” là truyện ngắn ác liệt tố giác chính quyền Pi-nô-chê khát máu tại Chi-lê chỉ có thể gây ra khổ đau, chết chóc, ly hương và quật khởi cho nhân dân xứ này. Truyện mang ý hướng ngụ ngôn, gợi ý, gợi hình, vừa có nét thần kỳ mà vẫn không xa hiện thực.
LTS: Valentin Rasputin sinh năm 1937 tại một ngôi làng ở Siberia, Ust-Uda. Tốt nghiệp xong đại học Irkutsk, ông làm việc cho các tờ báo ở Irkutsk và ở Krasnoyarsk trong nhiều năm. Truyện ngắn đầu tiên của ông xuất hiện năm 1961. Truyện “Tiền bạc cho Ma-ria” đem lại danh tiếng cho ông. Với những truyện xuất hiện sau đó như “Kỳ hạn cuối cùng”, “Hãy sống và nhớ đến tôi”, “Vĩnh biệt Ma-chi-ô-ra”, ông được khẳng định như một trong những nhà văn Xô-viết lớn nhất. Truyện ngắn dưới đây xuất hiện trong một tập truyện mới của ông, tập truyện có đề là “Cuộc sống và tình yêu”.
LGT: Hồ Thích là nhà văn, học giả lớn của Trung Quốc. Truyện cực ngắn này đã rạch đôi hai nền văn minh với hai lối sống, hai cách tư duy. Với nền văn minh nông nghiệp, xã hội tiểu nông, mọi thứ chỉ cần tương đối. Đem lối sống, cách tư duy ấy sang nền văn minh đại công nghiệp thì trật khớp hết, và… chết.
PHRÊ-ĐRÍCH SI-LAN-ĐE- Tất cả đứng dậy, - viên mõ tòa nói với giọng đều đều.Ông chánh án bước vào, kéo ghế lại gần rồi ngồi xuống.- Tất cả ngồi xuống, - viên mõ tòa làm xong phận sự, chẳng còn buồn để ý đến những gì diễn ra trước mắt.
A-ri-en Đot-phơ-man sinh năm 1942 tại Chi-lê. Giáo sư dạy thuyết giảng tại Đại học Văn thuộc Viện Đại học Chi-lê, ông phải rời bỏ Chi-lê vào năm 1973, viết truyện ngắn, tiểu luận và thơ.Truyện ngắn Viên thuốc bọc đường viết theo kỹ thuật chen lồng đối thoại và chen lồng hiện tại và tương lai.Nội dung truyện vạch trần sự vật lộn miếng ăn tại Hoa Kỳ khiến cho lắm kẻ tha phương lao vào một số nghề nghiệp nguy hiểm, khốn nạn.
An-ghiêc-đax Pô-xi-ux, sinh năm 1930, tại làng Ketubai - ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn Litva ở Học viện Giáo dục Klaipeda - Ông viết văn vào năm 1953, tác giả của nhiều truyện ký, đồng thời ông còn là nhà văn viết nhiều cho tuổi thơ.
VLA-ĐI-MIA XÔ-LÔ-KHINThị trấn nhỏ giữa buổi trưa hè bụi bậm, buồn tanh, vắng ngắt. Chẳng biết tự bao giờ, giữa thị trấn đã sừng sững một tòa đại giáo đường năm tháp nhọn. Nổi lên giữa những mái nhà một tầng có vườn cây xanh rì bao quanh trải đều lúp xúp hai bên bờ sông là gần chục nhà thờ, mà tháp của chúng cái thì màu da trời, cái thì màu lục, cái thì màu vàng.
Marie Luise Kaschnitz (1901-1974) là một nữ văn sĩ nổi tiếng và tiến bộ của Tây Đức, sinh trưởng ở Cac-lơ Xru-e (Karlsruhe) trong một gia đình sĩ quan. Bắt đầu hoạt động với tư cách cây bút văn xuôi từ những năm 20.
K. PAU-TỐP-XKISố phận một nguyên soái của Na-pô-lê-ông - mà chúng ta sẽ không gọi tên để khỏi làm phiền lòng những nhà sử học và những kẻ mọt sách - xứng đáng để đem kể cho các bạn, những người đang phàn nàn về sự nghèo nàn của tình cảm con người.
LTS: Vassily Shukshin (1929-1974), một diễn viên tài hoa, một đạo diễn phim lỗi lạc, một nhà văn tên tuổi. Thật khó nói lãnh vực nghệ thuật nào đã quyết định quá trình hình thành tài năng của Shukshin: truyện ngắn, tiểu thuyết hay điện ảnh? Nhưng dẫu sao vẫn không cần bàn cãi gì nữa về giá trị truyện ngắn của Shukshin. Xin giới thiệu một trong những truyện ngắn viết vào những năm cuối đời của nhà văn.