Cảm theo cách của “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”

08:15 05/10/2009
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

Đức Phật, nàng Savitri và tôi(*) của nhà văn Hồ Anh Thái xuất hiện đã hơn hai năm. Hơn hai năm đủ lắng để nói tới cách đọc khác về cuốn tiểu thuyết đã gây tranh luận ngay từ khi ra mắt. Và cho đến bây giờ vẫn còn chưa lắng đâu đó.     

Đã nhớ Hồ Anh Thái với sự giễu nhại, hài hước thâm trầm. Những nụ cười chậm được bật ra khi đã đọc qua vài ba trang hoặc có khi cả thiên truyện. Lớn hơn hết ở khu vực giọng điệu giễu nhại sâu thẳm vẫn là sự sẻ chia, thông cảm. Tinh thần của người có cơ duyên với Phật pháp. Và cũng không xa lạ với chủ nghĩa nhân văn phương Tây.

Điều này được thể hiện hầu hết qua các tác phẩm: Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm…

Và giọng điệu trữ tình tự sự trong trẻo ở thiên truyện ngắn đầu tiên: Nói bằng lời của mình, Chàng trai ở bến đợi xe và trở nên sâu sắc, cắn rứt người đọc ở Tiếng thở dài qua rừng kim tước.

Cho đến nay, Tiếng thở dài qua rừng kim tước là tác phẩm hiện đại của văn chương Việt về đề tài Ấn Độ được đông đảo bạn đọc nhiều thế hệ đánh giá không kém cân lạng tác phẩm của chính nhà văn Ấn Độ đã dịch sang tiếng Việt. Thân phận con người Ấn Độ thể hiện qua tác phẩm khiến người đọc rùng mình thương cảm. Thấy văn hóa Ấn vị tha cao cả nhưng cũng đầy ứ ác nghiệt của những chia rẽ tầng nấc xã hội. Nhiều người cho rằng: Tiếng thở dài qua rừng kim tước có thể đọc lại bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào. Nó không hề gợn lên một cảm giác mòn cũ qua dòng chảy thời gian, bởi ý nghĩa nhân bản của nó, không chỉ gói trong không gian văn hóa Ấn: sự băn khoăn có nghĩa và vô nghĩa của kiếp người.

Dù Hồ Anh Thái trở lại nhiều lần với đề tài Ấn Độ: Người Ấn, Người đứng một chân, Chuyện cuộc đời Đức Phật, Đến muộn, Kiếp người đi qua; thì Tiếng thở dài qua rừng kim tước, vẫn là dấu mốc ám ảnh chói sáng.

Nhưng với tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái thiết nghĩ cần nhìn nhận và tiếp cận ở nhiều góc khác nhau một cách dân chủ, thì mới sáng rõ được tinh thần mà tự thân tác phẩm hàm chứa. Không phải vì cuốn tiểu thuyết đã được nhà văn thai nghén trong 20 năm, càng không phải vì tác giả là người làm luận văn tiến sỹ về Văn hóa Ấn. Cũng chẳng phải vì chính Đức Phật, nàng Savitri và tôi mang tính biểu tượng cao của tiểu thuyết hiện đại, mà bất kỳ tác phẩm nào cũng cần được đối xử một cách công bằng trong cách đọc.

Trong thực tế chẳng có thiên tiểu thuyết để đời nào lại được viết ra ngẫu nhiên. Chúng đều là sản phẩm kết tinh trải nghiệm của cả một đời văn, hoặc chiếm dụng không ít tinh lực văn hóa, thời gian cụ thể của một nhà văn. Tôi tin và khẳng định, Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng.

Văn hóa Phật giáo cũng đã đến Đại Việt từ thời sơ khai của nó. Và phát triển rực rỡ ở các triều Lý, Trần. Trong dòng chảy tinh thần lịch sử, văn hóa Việt hôm nay, yếu tố Phật giáo là một phần quan trọng. Một số bạn đọc chắc cũng không quá ngạc nhiên khi tiếp cận Đức Phật, nàng Savitri và tôi… bởi trong tiềm thức, văn hóa Phật giáo ẩn tàng sẽ kịp thời thức dậy…

 Không tạo sự khác thường hay căng thẳng gây hứng thú tâm lý vốn có ở các tác phẩm trước đó của Hồ Anh Thái, Đức Phật, nàng Savitri và tôi với cách kể chuyện thoải mái, đầy cảm giác tạo nên sự giao tiếp nhu thuận tự nhiên với người đọc.


Nhà văn Hồ Anh Thái tại Thiền viện Bạch Mã


Đức Phật, nàng Savitri và tôi, không thể là cuốn sách khó đọc. Nhưng đọc nó theo tinh thần và vị thế nào lại là chuyện khác. Nó là cuốn sách không dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là một thách thức không dễ gì vượt qua của các tiểu thuyết gia.

Hồ Anh Thái hoàn toàn tự chủ và thoải mái nhuần nhuyễn ở trạng thái dung hòa giữa hư và thực.

Tôi định sẽ phải dành thời gian cho Đức Phật, nàng Savitri và tôi ngay. Nhưng rồi công việc cuốn đi. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chọn cách đọc ngẫu hứng. Sách vứt đầu giường, rảnh thì lật đâu đọc đấy. Đọc lỗ mỗ rồi cũng xong. Và đọc lại nhanh một lượt. Cảm giác của hai lần đọc khác hẳn nhau. Đọc xôi đỗ thật thích. Vì được nhâm nhi. Mỗi dòng mỗi phân đoạn đều chứa thông tin đa chiều, nội dung tự thân và kỹ thuật và câu chữ với vẻ đẹp tinh tế. Đọc lướt thì cảm giác ấy không còn, mà là sự bị cuốn đi của câu chuyện với một không gian choáng ngợp bị nén lại của 2500 năm.

Và tôi đã đọc lại một cách chậm rãi.

Không phải ngẫu nhiêu Hồ Anh Thái lại cấu trúc theo con số 3, nơi phương Đông gặp phương Tây: Đức Phật/ Nàng/ Tôi/. Phật có Ba thì/ Chúa có Ba ngôi/ Trời/ Nhân/ Địa/. Và Bàlamôn Ấn giáo cổ với ba vị thần đứng đầu: Thần Sáng tạo (Brahma) Thần Bảo tồn (Vishnu) Thần Hủy diệt và Tái tạo (Shiva).

Đức Phật, nàng Savitri và tôi không nhằm đến một sự truyền bá văn hóa Ấn qua hình ảnh Đức Phật, tôi không nghĩ tầm bút lực như Hồ Anh Thái dụng công hai chục năm trong hơn bốn trăm trang sách chỉ để phát biểu vấn đề có thể giải quyết ở mức độ giản dị hơn rất nhiều.

Có những cuốn sách không cần chỉ ra bài học nào cụ thể, nhưng nó lại cho người ta tất cả những gì người ta thiếu hụt: đó là cảm giác sống với những đam mê sắc dục, của cải, địa vị, tội ác, cảm giác về ý nghĩa cuộc đời con người, cảm giác về thời gian, cảm giác vũ trụ, cảm giác về sự phản tỉnh cái tôi… Và cảm khoái được thỏa mãn thưởng thức văn chương với nội dung xác thực hấp dẫn của nó nữa.

Điều thu nhận trong trường hợp này là một cảm giác thấp thỏm, đeo đẳng, không thể cắt nghĩa, rồi trong một hoàn cảnh cụ thể của đời sống ta gặp, trùng hợp hoặc gợi mở đến cảm giác ta đang có từ cuốn sách kia, sẽ bùng lên một chân lý nào đó giúp ta chiêm nghiệm đời sống tốt đẹp hơn.

Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một cuốn sách như thế.

Ba nhân vật: Đức Phật, Savitri, Tôi xuyên suốt tác phẩm, với dung lượng chữ khác nhau. Mặc dù Đức Phật được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau của Tôi, của Savitri mang những thông điệp khác nhau, tạo cảm giác ảo Đức Phật là nhân vật trung tâm.

Nhưng với triết lý luân hồi nhân kiếp thì cả ba đều là nhân vật trung tâm, cả ba đều gắn bó hữu cơ với nhau dưới bề mặt câu chữ và tự cân bằng với nhau ở từng vị thế của nhân vật mà nhà văn Hồ Anh Thái đã dụng công chủ ý. Sự cân bằng chân vạc ấy, tạo nên cảm giác vững chãi, tịnh tiến mà cảm nhận đời sống theo từng li ti mạch đập trên móng nền đồ sộ của văn hóa và lịch sử Ấn.

Một sợi tóc chia hai, chia ba, chia sáu, chia và chia liên tục đến không chia nổi của khoảng không. Sợi tóc có đấy mà cũng không có đấy. Đưa tay ra khoảng không nắm được sợi tóc và không nắm được sợi tóc. Điều ấy có khác gì tiền kiếp của Savitri 2500 năm trước và sau 2500 năm nén lại trong hành trình.

Đức Phật, Savitri, tôi trong vòng xoay vũ trụ có thời khắc kiếp phận cụ thể là sự hoán đổi vị thế. Sự cảm nhận này rõ ràng, chợn rợn thoáng chút, nhưng không khiến ta sợ hãi. Vọng dục hướng tới Tà hay hướng tới Thiện của Savitri trong mỗi kiếp đều mạnh mẽ và cháy bỏng không kém nhau. Lại là hai mà một. Có và không. Một hình tượng đặc sắc nhuốm sắc màu thông linh Phật pháp.

Biết rõ con đường hầm hố, chông gai, bẫy cài, nhưng ta vẫn phải bước đi trên nó với sự truy đuổi của tình yêu, và đức tin, ngắm cái đích cuối của nó là sự sống chết trong cạn bóng ngày hay là ý nghĩa của đời người qua lớp sương mù huyền hoặc xứ Ấn mà vẫn có cảm giác an nhiên như câu chuyện đang diễn tiến ở nước Việt.

Mê mà tỉnh. Ngộ rồi không. Đây là cuốn sách được viết ra không bình thường trong thời đại hiện nay. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn.

Trong kế thừa nhất quán của phong cách đa thanh Hồ Anh Thái, nhưng ở thiên tiểu thuyết này, nhà văn kiến tạo được diện mạo văn chương mới: giễu nhại - tự sự - trữ tình, hòa quyện với nhau hoàn hảo không gợn dấu vết kết nối, mê dụ người đọc mà vẫn đặc sắc Hồ Anh Thái.

Thiết nghĩ Đức Phật, nàng Savitri và tôi là cuốn sách không cần phải đọc ngay, nếu bạn thiếu thời gian. Hãy thử đọc theo cách của tôi: hãy đọc nó bất cứ lúc nào có thể. Ta đừng cố tìm hiểu những điều gì bí ẩn mà nó hàm chứa. Trước hết hãy làm quen với nó từ từ, chậm rãi, đúng như tốc độ của chủ nhân đã sinh thành ra nó. Cảm nhận từng chút một, và lắng nghe cảm giác ở trong mình qua mỗi trang.

Theo cách này ta sẽ NGỘ nó. Dù câu chuyện có thời gian 2500 năm, bên xứ Ấn. Nhưng ta sẽ thấy Nó ngay trong con người mình nỗi kiếp làm người, trên mảnh đất ta đứng chân.

N.T.T.K
(247/09-09)


---------------
(*) Nhà xuất bản Đà Nẵng và công ty Văn hóa Phương Nam, 2007.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.