Cảm theo cách của “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”

08:15 05/10/2009
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

Đức Phật, nàng Savitri và tôi(*) của nhà văn Hồ Anh Thái xuất hiện đã hơn hai năm. Hơn hai năm đủ lắng để nói tới cách đọc khác về cuốn tiểu thuyết đã gây tranh luận ngay từ khi ra mắt. Và cho đến bây giờ vẫn còn chưa lắng đâu đó.     

Đã nhớ Hồ Anh Thái với sự giễu nhại, hài hước thâm trầm. Những nụ cười chậm được bật ra khi đã đọc qua vài ba trang hoặc có khi cả thiên truyện. Lớn hơn hết ở khu vực giọng điệu giễu nhại sâu thẳm vẫn là sự sẻ chia, thông cảm. Tinh thần của người có cơ duyên với Phật pháp. Và cũng không xa lạ với chủ nghĩa nhân văn phương Tây.

Điều này được thể hiện hầu hết qua các tác phẩm: Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm…

Và giọng điệu trữ tình tự sự trong trẻo ở thiên truyện ngắn đầu tiên: Nói bằng lời của mình, Chàng trai ở bến đợi xe và trở nên sâu sắc, cắn rứt người đọc ở Tiếng thở dài qua rừng kim tước.

Cho đến nay, Tiếng thở dài qua rừng kim tước là tác phẩm hiện đại của văn chương Việt về đề tài Ấn Độ được đông đảo bạn đọc nhiều thế hệ đánh giá không kém cân lạng tác phẩm của chính nhà văn Ấn Độ đã dịch sang tiếng Việt. Thân phận con người Ấn Độ thể hiện qua tác phẩm khiến người đọc rùng mình thương cảm. Thấy văn hóa Ấn vị tha cao cả nhưng cũng đầy ứ ác nghiệt của những chia rẽ tầng nấc xã hội. Nhiều người cho rằng: Tiếng thở dài qua rừng kim tước có thể đọc lại bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào. Nó không hề gợn lên một cảm giác mòn cũ qua dòng chảy thời gian, bởi ý nghĩa nhân bản của nó, không chỉ gói trong không gian văn hóa Ấn: sự băn khoăn có nghĩa và vô nghĩa của kiếp người.

Dù Hồ Anh Thái trở lại nhiều lần với đề tài Ấn Độ: Người Ấn, Người đứng một chân, Chuyện cuộc đời Đức Phật, Đến muộn, Kiếp người đi qua; thì Tiếng thở dài qua rừng kim tước, vẫn là dấu mốc ám ảnh chói sáng.

Nhưng với tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái thiết nghĩ cần nhìn nhận và tiếp cận ở nhiều góc khác nhau một cách dân chủ, thì mới sáng rõ được tinh thần mà tự thân tác phẩm hàm chứa. Không phải vì cuốn tiểu thuyết đã được nhà văn thai nghén trong 20 năm, càng không phải vì tác giả là người làm luận văn tiến sỹ về Văn hóa Ấn. Cũng chẳng phải vì chính Đức Phật, nàng Savitri và tôi mang tính biểu tượng cao của tiểu thuyết hiện đại, mà bất kỳ tác phẩm nào cũng cần được đối xử một cách công bằng trong cách đọc.

Trong thực tế chẳng có thiên tiểu thuyết để đời nào lại được viết ra ngẫu nhiên. Chúng đều là sản phẩm kết tinh trải nghiệm của cả một đời văn, hoặc chiếm dụng không ít tinh lực văn hóa, thời gian cụ thể của một nhà văn. Tôi tin và khẳng định, Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng.

Văn hóa Phật giáo cũng đã đến Đại Việt từ thời sơ khai của nó. Và phát triển rực rỡ ở các triều Lý, Trần. Trong dòng chảy tinh thần lịch sử, văn hóa Việt hôm nay, yếu tố Phật giáo là một phần quan trọng. Một số bạn đọc chắc cũng không quá ngạc nhiên khi tiếp cận Đức Phật, nàng Savitri và tôi… bởi trong tiềm thức, văn hóa Phật giáo ẩn tàng sẽ kịp thời thức dậy…

 Không tạo sự khác thường hay căng thẳng gây hứng thú tâm lý vốn có ở các tác phẩm trước đó của Hồ Anh Thái, Đức Phật, nàng Savitri và tôi với cách kể chuyện thoải mái, đầy cảm giác tạo nên sự giao tiếp nhu thuận tự nhiên với người đọc.


Nhà văn Hồ Anh Thái tại Thiền viện Bạch Mã


Đức Phật, nàng Savitri và tôi, không thể là cuốn sách khó đọc. Nhưng đọc nó theo tinh thần và vị thế nào lại là chuyện khác. Nó là cuốn sách không dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là một thách thức không dễ gì vượt qua của các tiểu thuyết gia.

Hồ Anh Thái hoàn toàn tự chủ và thoải mái nhuần nhuyễn ở trạng thái dung hòa giữa hư và thực.

Tôi định sẽ phải dành thời gian cho Đức Phật, nàng Savitri và tôi ngay. Nhưng rồi công việc cuốn đi. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chọn cách đọc ngẫu hứng. Sách vứt đầu giường, rảnh thì lật đâu đọc đấy. Đọc lỗ mỗ rồi cũng xong. Và đọc lại nhanh một lượt. Cảm giác của hai lần đọc khác hẳn nhau. Đọc xôi đỗ thật thích. Vì được nhâm nhi. Mỗi dòng mỗi phân đoạn đều chứa thông tin đa chiều, nội dung tự thân và kỹ thuật và câu chữ với vẻ đẹp tinh tế. Đọc lướt thì cảm giác ấy không còn, mà là sự bị cuốn đi của câu chuyện với một không gian choáng ngợp bị nén lại của 2500 năm.

Và tôi đã đọc lại một cách chậm rãi.

Không phải ngẫu nhiêu Hồ Anh Thái lại cấu trúc theo con số 3, nơi phương Đông gặp phương Tây: Đức Phật/ Nàng/ Tôi/. Phật có Ba thì/ Chúa có Ba ngôi/ Trời/ Nhân/ Địa/. Và Bàlamôn Ấn giáo cổ với ba vị thần đứng đầu: Thần Sáng tạo (Brahma) Thần Bảo tồn (Vishnu) Thần Hủy diệt và Tái tạo (Shiva).

Đức Phật, nàng Savitri và tôi không nhằm đến một sự truyền bá văn hóa Ấn qua hình ảnh Đức Phật, tôi không nghĩ tầm bút lực như Hồ Anh Thái dụng công hai chục năm trong hơn bốn trăm trang sách chỉ để phát biểu vấn đề có thể giải quyết ở mức độ giản dị hơn rất nhiều.

Có những cuốn sách không cần chỉ ra bài học nào cụ thể, nhưng nó lại cho người ta tất cả những gì người ta thiếu hụt: đó là cảm giác sống với những đam mê sắc dục, của cải, địa vị, tội ác, cảm giác về ý nghĩa cuộc đời con người, cảm giác về thời gian, cảm giác vũ trụ, cảm giác về sự phản tỉnh cái tôi… Và cảm khoái được thỏa mãn thưởng thức văn chương với nội dung xác thực hấp dẫn của nó nữa.

Điều thu nhận trong trường hợp này là một cảm giác thấp thỏm, đeo đẳng, không thể cắt nghĩa, rồi trong một hoàn cảnh cụ thể của đời sống ta gặp, trùng hợp hoặc gợi mở đến cảm giác ta đang có từ cuốn sách kia, sẽ bùng lên một chân lý nào đó giúp ta chiêm nghiệm đời sống tốt đẹp hơn.

Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một cuốn sách như thế.

Ba nhân vật: Đức Phật, Savitri, Tôi xuyên suốt tác phẩm, với dung lượng chữ khác nhau. Mặc dù Đức Phật được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau của Tôi, của Savitri mang những thông điệp khác nhau, tạo cảm giác ảo Đức Phật là nhân vật trung tâm.

Nhưng với triết lý luân hồi nhân kiếp thì cả ba đều là nhân vật trung tâm, cả ba đều gắn bó hữu cơ với nhau dưới bề mặt câu chữ và tự cân bằng với nhau ở từng vị thế của nhân vật mà nhà văn Hồ Anh Thái đã dụng công chủ ý. Sự cân bằng chân vạc ấy, tạo nên cảm giác vững chãi, tịnh tiến mà cảm nhận đời sống theo từng li ti mạch đập trên móng nền đồ sộ của văn hóa và lịch sử Ấn.

Một sợi tóc chia hai, chia ba, chia sáu, chia và chia liên tục đến không chia nổi của khoảng không. Sợi tóc có đấy mà cũng không có đấy. Đưa tay ra khoảng không nắm được sợi tóc và không nắm được sợi tóc. Điều ấy có khác gì tiền kiếp của Savitri 2500 năm trước và sau 2500 năm nén lại trong hành trình.

Đức Phật, Savitri, tôi trong vòng xoay vũ trụ có thời khắc kiếp phận cụ thể là sự hoán đổi vị thế. Sự cảm nhận này rõ ràng, chợn rợn thoáng chút, nhưng không khiến ta sợ hãi. Vọng dục hướng tới Tà hay hướng tới Thiện của Savitri trong mỗi kiếp đều mạnh mẽ và cháy bỏng không kém nhau. Lại là hai mà một. Có và không. Một hình tượng đặc sắc nhuốm sắc màu thông linh Phật pháp.

Biết rõ con đường hầm hố, chông gai, bẫy cài, nhưng ta vẫn phải bước đi trên nó với sự truy đuổi của tình yêu, và đức tin, ngắm cái đích cuối của nó là sự sống chết trong cạn bóng ngày hay là ý nghĩa của đời người qua lớp sương mù huyền hoặc xứ Ấn mà vẫn có cảm giác an nhiên như câu chuyện đang diễn tiến ở nước Việt.

Mê mà tỉnh. Ngộ rồi không. Đây là cuốn sách được viết ra không bình thường trong thời đại hiện nay. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn.

Trong kế thừa nhất quán của phong cách đa thanh Hồ Anh Thái, nhưng ở thiên tiểu thuyết này, nhà văn kiến tạo được diện mạo văn chương mới: giễu nhại - tự sự - trữ tình, hòa quyện với nhau hoàn hảo không gợn dấu vết kết nối, mê dụ người đọc mà vẫn đặc sắc Hồ Anh Thái.

Thiết nghĩ Đức Phật, nàng Savitri và tôi là cuốn sách không cần phải đọc ngay, nếu bạn thiếu thời gian. Hãy thử đọc theo cách của tôi: hãy đọc nó bất cứ lúc nào có thể. Ta đừng cố tìm hiểu những điều gì bí ẩn mà nó hàm chứa. Trước hết hãy làm quen với nó từ từ, chậm rãi, đúng như tốc độ của chủ nhân đã sinh thành ra nó. Cảm nhận từng chút một, và lắng nghe cảm giác ở trong mình qua mỗi trang.

Theo cách này ta sẽ NGỘ nó. Dù câu chuyện có thời gian 2500 năm, bên xứ Ấn. Nhưng ta sẽ thấy Nó ngay trong con người mình nỗi kiếp làm người, trên mảnh đất ta đứng chân.

N.T.T.K
(247/09-09)


---------------
(*) Nhà xuất bản Đà Nẵng và công ty Văn hóa Phương Nam, 2007.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

  • Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.

  • Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.

  • Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.

  • LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.

  • Theo định nghĩa hiện nay, trường ca là một tác phẩm thơ có dung lượng lớn, thường có cốt truyện tự sự hoặc trữ tình.

  • (Phát biểu ý kiến góp phần vào nội dung Đề án Nghị quyết về “Xây dựng đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH...” của Ban Tuyên giáo Trung ương).

  • 1. Cuốn sách về nhà tình báo nổi tiếng - anh hùng Phạm Xuân Ẩn (PXÂ) của giáo sư sử học người Mỹ Larry Berman, khi được xuất bản bằng tiếng Việt có thêm phụ đề “Cuộc đời hai mặt không thể tin được của Phạm Xuân Ẩn”.

  • Lâm Thị Mỹ Dạ là một nhà thơ trưởng thành trong phong trào chống Mỹ. Nhắc đến thơ chị, người ta thường nhớ đến những bài thơ mang đậm âm hưởng sử thi như Khoảng trời, hố bom, hoặc dịu dàng, nữ tính nhưng không kém phần thẳng thắn như Anh đừng khen em, hoặc nồng cháy yêu đương như Không đề…

  • "Không có cách khác, thưa ngài. Tất cả cái gì không phải văn xuôi thì là thơ; và tất cả cái gì không phải thơ thì là văn xuôi"(Gã tư sản quý tộc, Molière). Trên đây là định nghĩa "thâm thúy" của thầy dạy triết cho ông Jourdain, người mà đã hơn bốn mươi năm trời vẫn sai bảo người ăn kẻ làm, vẫn hằng ngày trò chuyện với mọi người bằng "văn xuôi" mà không tự biết.

  • Trong những vấn đề mới của lý luận văn học hiện nay, các nhà nghiên cứu thường nói đến chức năng giao tiếp của văn học. Khi nói văn học có chức năng giao tiếp thì cũng có nghĩa cho rằng văn học ở ngoài giao tiếp.

  • PHONG LÊ …Không đầy hai thập niên đầu thế kỷ, trong những thức nhận mới của đất nước, nền văn chương- học thuật của dân tộc bỗng chuyển sang một mô hình khác- mô hình quốc ngữ, với sức chuyên chở và phổ cập được trao cho phong trào báo chí, xuất bản bỗng lần đầu tiên xuất hiện và sớm trở nên sôi nổi như chưa bào giờ có trong ngót nghìn năm nền văn chương học thuật cổ truyền…

  • Vừa qua bà văn sĩ Nguyễn Khoa Bội Lan ở Phú Thượng (Huế) đột ngột gọi dây nói cho tôi than phiền về những chi tiết sai với lịch sử trong bài Phạn Bội Châu với Hương Giang thư quán của  Chu Trọng Huyến đăng trên Tạp chí Sông Hương số 116 (10. 1998)

  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

  • Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. 

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học. 

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...