Cảm theo cách của “Đức Phật, nàng Savitri và tôi”

08:15 05/10/2009
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

Đức Phật, nàng Savitri và tôi(*) của nhà văn Hồ Anh Thái xuất hiện đã hơn hai năm. Hơn hai năm đủ lắng để nói tới cách đọc khác về cuốn tiểu thuyết đã gây tranh luận ngay từ khi ra mắt. Và cho đến bây giờ vẫn còn chưa lắng đâu đó.     

Đã nhớ Hồ Anh Thái với sự giễu nhại, hài hước thâm trầm. Những nụ cười chậm được bật ra khi đã đọc qua vài ba trang hoặc có khi cả thiên truyện. Lớn hơn hết ở khu vực giọng điệu giễu nhại sâu thẳm vẫn là sự sẻ chia, thông cảm. Tinh thần của người có cơ duyên với Phật pháp. Và cũng không xa lạ với chủ nghĩa nhân văn phương Tây.

Điều này được thể hiện hầu hết qua các tác phẩm: Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Cõi người rung chuông tận thế, Mười lẻ một đêm…

Và giọng điệu trữ tình tự sự trong trẻo ở thiên truyện ngắn đầu tiên: Nói bằng lời của mình, Chàng trai ở bến đợi xe và trở nên sâu sắc, cắn rứt người đọc ở Tiếng thở dài qua rừng kim tước.

Cho đến nay, Tiếng thở dài qua rừng kim tước là tác phẩm hiện đại của văn chương Việt về đề tài Ấn Độ được đông đảo bạn đọc nhiều thế hệ đánh giá không kém cân lạng tác phẩm của chính nhà văn Ấn Độ đã dịch sang tiếng Việt. Thân phận con người Ấn Độ thể hiện qua tác phẩm khiến người đọc rùng mình thương cảm. Thấy văn hóa Ấn vị tha cao cả nhưng cũng đầy ứ ác nghiệt của những chia rẽ tầng nấc xã hội. Nhiều người cho rằng: Tiếng thở dài qua rừng kim tước có thể đọc lại bất cứ lúc nào, bất cứ thời điểm nào. Nó không hề gợn lên một cảm giác mòn cũ qua dòng chảy thời gian, bởi ý nghĩa nhân bản của nó, không chỉ gói trong không gian văn hóa Ấn: sự băn khoăn có nghĩa và vô nghĩa của kiếp người.

Dù Hồ Anh Thái trở lại nhiều lần với đề tài Ấn Độ: Người Ấn, Người đứng một chân, Chuyện cuộc đời Đức Phật, Đến muộn, Kiếp người đi qua; thì Tiếng thở dài qua rừng kim tước, vẫn là dấu mốc ám ảnh chói sáng.

Nhưng với tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi của Hồ Anh Thái thiết nghĩ cần nhìn nhận và tiếp cận ở nhiều góc khác nhau một cách dân chủ, thì mới sáng rõ được tinh thần mà tự thân tác phẩm hàm chứa. Không phải vì cuốn tiểu thuyết đã được nhà văn thai nghén trong 20 năm, càng không phải vì tác giả là người làm luận văn tiến sỹ về Văn hóa Ấn. Cũng chẳng phải vì chính Đức Phật, nàng Savitri và tôi mang tính biểu tượng cao của tiểu thuyết hiện đại, mà bất kỳ tác phẩm nào cũng cần được đối xử một cách công bằng trong cách đọc.

Trong thực tế chẳng có thiên tiểu thuyết để đời nào lại được viết ra ngẫu nhiên. Chúng đều là sản phẩm kết tinh trải nghiệm của cả một đời văn, hoặc chiếm dụng không ít tinh lực văn hóa, thời gian cụ thể của một nhà văn. Tôi tin và khẳng định, Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng.

Văn hóa Phật giáo cũng đã đến Đại Việt từ thời sơ khai của nó. Và phát triển rực rỡ ở các triều Lý, Trần. Trong dòng chảy tinh thần lịch sử, văn hóa Việt hôm nay, yếu tố Phật giáo là một phần quan trọng. Một số bạn đọc chắc cũng không quá ngạc nhiên khi tiếp cận Đức Phật, nàng Savitri và tôi… bởi trong tiềm thức, văn hóa Phật giáo ẩn tàng sẽ kịp thời thức dậy…

 Không tạo sự khác thường hay căng thẳng gây hứng thú tâm lý vốn có ở các tác phẩm trước đó của Hồ Anh Thái, Đức Phật, nàng Savitri và tôi với cách kể chuyện thoải mái, đầy cảm giác tạo nên sự giao tiếp nhu thuận tự nhiên với người đọc.


Nhà văn Hồ Anh Thái tại Thiền viện Bạch Mã


Đức Phật, nàng Savitri và tôi, không thể là cuốn sách khó đọc. Nhưng đọc nó theo tinh thần và vị thế nào lại là chuyện khác. Nó là cuốn sách không dễ gì để viết. Sự phối trộn nguồn sử liệu và truyền thuyết và hiện tại trên nền cảm hứng dài hơi của tiểu thuyết là một thách thức không dễ gì vượt qua của các tiểu thuyết gia.

Hồ Anh Thái hoàn toàn tự chủ và thoải mái nhuần nhuyễn ở trạng thái dung hòa giữa hư và thực.

Tôi định sẽ phải dành thời gian cho Đức Phật, nàng Savitri và tôi ngay. Nhưng rồi công việc cuốn đi. Không còn cách nào khác, tôi đành phải chọn cách đọc ngẫu hứng. Sách vứt đầu giường, rảnh thì lật đâu đọc đấy. Đọc lỗ mỗ rồi cũng xong. Và đọc lại nhanh một lượt. Cảm giác của hai lần đọc khác hẳn nhau. Đọc xôi đỗ thật thích. Vì được nhâm nhi. Mỗi dòng mỗi phân đoạn đều chứa thông tin đa chiều, nội dung tự thân và kỹ thuật và câu chữ với vẻ đẹp tinh tế. Đọc lướt thì cảm giác ấy không còn, mà là sự bị cuốn đi của câu chuyện với một không gian choáng ngợp bị nén lại của 2500 năm.

Và tôi đã đọc lại một cách chậm rãi.

Không phải ngẫu nhiêu Hồ Anh Thái lại cấu trúc theo con số 3, nơi phương Đông gặp phương Tây: Đức Phật/ Nàng/ Tôi/. Phật có Ba thì/ Chúa có Ba ngôi/ Trời/ Nhân/ Địa/. Và Bàlamôn Ấn giáo cổ với ba vị thần đứng đầu: Thần Sáng tạo (Brahma) Thần Bảo tồn (Vishnu) Thần Hủy diệt và Tái tạo (Shiva).

Đức Phật, nàng Savitri và tôi không nhằm đến một sự truyền bá văn hóa Ấn qua hình ảnh Đức Phật, tôi không nghĩ tầm bút lực như Hồ Anh Thái dụng công hai chục năm trong hơn bốn trăm trang sách chỉ để phát biểu vấn đề có thể giải quyết ở mức độ giản dị hơn rất nhiều.

Có những cuốn sách không cần chỉ ra bài học nào cụ thể, nhưng nó lại cho người ta tất cả những gì người ta thiếu hụt: đó là cảm giác sống với những đam mê sắc dục, của cải, địa vị, tội ác, cảm giác về ý nghĩa cuộc đời con người, cảm giác về thời gian, cảm giác vũ trụ, cảm giác về sự phản tỉnh cái tôi… Và cảm khoái được thỏa mãn thưởng thức văn chương với nội dung xác thực hấp dẫn của nó nữa.

Điều thu nhận trong trường hợp này là một cảm giác thấp thỏm, đeo đẳng, không thể cắt nghĩa, rồi trong một hoàn cảnh cụ thể của đời sống ta gặp, trùng hợp hoặc gợi mở đến cảm giác ta đang có từ cuốn sách kia, sẽ bùng lên một chân lý nào đó giúp ta chiêm nghiệm đời sống tốt đẹp hơn.

Tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi là một cuốn sách như thế.

Ba nhân vật: Đức Phật, Savitri, Tôi xuyên suốt tác phẩm, với dung lượng chữ khác nhau. Mặc dù Đức Phật được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau của Tôi, của Savitri mang những thông điệp khác nhau, tạo cảm giác ảo Đức Phật là nhân vật trung tâm.

Nhưng với triết lý luân hồi nhân kiếp thì cả ba đều là nhân vật trung tâm, cả ba đều gắn bó hữu cơ với nhau dưới bề mặt câu chữ và tự cân bằng với nhau ở từng vị thế của nhân vật mà nhà văn Hồ Anh Thái đã dụng công chủ ý. Sự cân bằng chân vạc ấy, tạo nên cảm giác vững chãi, tịnh tiến mà cảm nhận đời sống theo từng li ti mạch đập trên móng nền đồ sộ của văn hóa và lịch sử Ấn.

Một sợi tóc chia hai, chia ba, chia sáu, chia và chia liên tục đến không chia nổi của khoảng không. Sợi tóc có đấy mà cũng không có đấy. Đưa tay ra khoảng không nắm được sợi tóc và không nắm được sợi tóc. Điều ấy có khác gì tiền kiếp của Savitri 2500 năm trước và sau 2500 năm nén lại trong hành trình.

Đức Phật, Savitri, tôi trong vòng xoay vũ trụ có thời khắc kiếp phận cụ thể là sự hoán đổi vị thế. Sự cảm nhận này rõ ràng, chợn rợn thoáng chút, nhưng không khiến ta sợ hãi. Vọng dục hướng tới Tà hay hướng tới Thiện của Savitri trong mỗi kiếp đều mạnh mẽ và cháy bỏng không kém nhau. Lại là hai mà một. Có và không. Một hình tượng đặc sắc nhuốm sắc màu thông linh Phật pháp.

Biết rõ con đường hầm hố, chông gai, bẫy cài, nhưng ta vẫn phải bước đi trên nó với sự truy đuổi của tình yêu, và đức tin, ngắm cái đích cuối của nó là sự sống chết trong cạn bóng ngày hay là ý nghĩa của đời người qua lớp sương mù huyền hoặc xứ Ấn mà vẫn có cảm giác an nhiên như câu chuyện đang diễn tiến ở nước Việt.

Mê mà tỉnh. Ngộ rồi không. Đây là cuốn sách được viết ra không bình thường trong thời đại hiện nay. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn.

Trong kế thừa nhất quán của phong cách đa thanh Hồ Anh Thái, nhưng ở thiên tiểu thuyết này, nhà văn kiến tạo được diện mạo văn chương mới: giễu nhại - tự sự - trữ tình, hòa quyện với nhau hoàn hảo không gợn dấu vết kết nối, mê dụ người đọc mà vẫn đặc sắc Hồ Anh Thái.

Thiết nghĩ Đức Phật, nàng Savitri và tôi là cuốn sách không cần phải đọc ngay, nếu bạn thiếu thời gian. Hãy thử đọc theo cách của tôi: hãy đọc nó bất cứ lúc nào có thể. Ta đừng cố tìm hiểu những điều gì bí ẩn mà nó hàm chứa. Trước hết hãy làm quen với nó từ từ, chậm rãi, đúng như tốc độ của chủ nhân đã sinh thành ra nó. Cảm nhận từng chút một, và lắng nghe cảm giác ở trong mình qua mỗi trang.

Theo cách này ta sẽ NGỘ nó. Dù câu chuyện có thời gian 2500 năm, bên xứ Ấn. Nhưng ta sẽ thấy Nó ngay trong con người mình nỗi kiếp làm người, trên mảnh đất ta đứng chân.

N.T.T.K
(247/09-09)


---------------
(*) Nhà xuất bản Đà Nẵng và công ty Văn hóa Phương Nam, 2007.

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.