Cảm hứng

14:39 18/06/2009
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Họa sĩ Vĩnh Trung vốn xuất thân từ dòng dõi hoàng tộc. Cố nội của ông vào làm quan ở xứ Sài Gòn - Gia Định rồi lập nghiệp ở đó. Tuy xa quê hương đất tổ đã nhiều đời nhưng Huế chính là quê nội của ông. Hơn nữa, thời chiến tranh, ông đã từng vào sinh ra tử và đã gửi lại một phần máu thịt của mình ở đây. Là một hoạ sĩ có tài năng và tâm huyết nên cũng giống như bao hoạ sĩ khác, từ lâu, ông đã có tâm nguyện là sẽ vẽ một cái gì đấy về mảnh đất mà mình có nhiều duyên nợ. Vì thế, ở tuổi tri thiên mệnh, khi tài năng đã chín, ông quyết định về Huế để thực hiện kiệt tác của cuộc đời mình mà ông đã từng ấp ủ bấy lâu nay.

Nhân dịp Festival Huế - 2002, một số văn nghệ sĩ ở thành phố Hồ Chí Minh tâm đắc với Huế đã rủ ông ra trẩy hội nhưng ông đã không đi trong dịp này. Mãi đến khi Huế đã vào mùa nắng mưa khắc nghiệt và khi đường phố chật ních những cậu tú, cô tú từ Bắc chí Nam lỉnh kỉnh lều chõng về Kinh dự thi thì ông mới hồi hương. Đợi đến thời điểm này ông mới ra vì ông là một người không những am hiểu Huế mà còn là một hoạ sĩ có ý thức và cẩn trọng trong nghề nghiệp. Ông không muốn Huế trong tranh của mình khoác chiếc áo sặc sỡ của ngày lễ hội. Ông muốn tranh của mình phải thể hiện được cái chân thật, cái thần thái đích thực của Huế. Bởi vì, ông biết Huế khắc nghiệt, nghèo khó nhưng thơ mộng sang trọng. Huế vừâa là Cố đô cổ kính, trầm mặc, vừa là thành phố của học sinh, sinh viên nhộn nhịp, trẻ trung. Huế có tiếng chuông chùa ngân nga và mùi hương trầm thoang thoảng. Đặc biệt là cái dễ thương nhưng thương không dễ của các cô tôn nữ...Ông muốn tranh của mình phải thể hiện được những điều đó.

Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ tâm thế và hành trang, họa sĩ Vĩnh Trung hăm hở lên tàu về quê. Đến Huế, như những lần trước, ông đã chọn khách sạn Lê Lợi để tá túc, vì ở đây chỉ cách ga vài trăm mét và việc đi lại trong thành phố cũng thuận tiện. Hơn nữa, nó lại nằm trên trục hoàng đạo: Điện Cần Chánh - Cửa Ngọ Môn - Kỳ Đài - Phú Văn Lâu - Đàn Nam Giao. Biết vào mùa tuyển sinh đại học, thí sinh đến Huế rất đông nên ông đã đăng kí phòng trước. Theo yêu cầu của ông, khách sạn đã dành cho ông phòng ngoài cùng ở tầng trên của dãy nhà đầu tiên. Phòng này có cái ban công. Ban ngày, đứng đó, ông có thể nhìn thấy kinh thành, sông Hương, núi Ngự... Ban đêm, ông có thể giao hoà với trời đất, mây nước, trăng sao...

Ổn định nơi ăn, chốn ở xong, họa sĩ Vĩnh Trung liền bày soạn cọ, màu và giá vẽ vào chỗ rộng rãi, thích hợp nhất của căn phòng. Xong, ông tiến hành đi tìm hiểu quan sát thực tế. Suốt một tuần liền, với chiếc xe máy thuê, ông đã có mặt khắp nơi trong thành phố và các vùng phụ cận. Nhưng ông vẫn không biết chọn gì để vẽ. Chỉ có sự kiên trì và kinh nghiệm nghề nghiệp mới giúp ông chiến thắng mình, mới giúp ông biết chờ đợi phút xuất thần, bùng nổ của trí tuệ và cảm xúc.

Ở đối điện với phòng họa sĩ Vĩnh Trung là nghệ sĩ Hải Lý. Cô từ Hà Nội vào Cố đô - nơi người chồng yêu quý của cô đã ngã xuống hồi chiến dịch Mậu Thân để viết tiếp bản nhạc mà anh ấy đang bỏ dở.

Hải Lý và người chồng quá cố của cô đều là nghệ sĩ đàn guitar. Những năm tháng sống bên nhau, anh ấy đã say sưa dùng tiếng đàn để thể hiện hạnh phúc lứa đôi. Nhưng bản nhạc mới được phần đầu thì anh ấy nhập ngũ, vào chiến trường và đã hy sinh. Hơn ba mươi năm sau, người quả phụ mới có điều kiện vào nơi chồng mình yên nghỉ để viết tiếp bản nhạc này.

Nghệ sĩ Hải Lý là một phụ nữ xinh đẹp. Sự lịch lãm, đoan trang, lạnh lùng làm cho cô có vẻ quý phái, sang trọng. Hình thức và tính cách đó dễ gây thiện cảm với người tiếp xúc. Vì vậy, ở khách sạn, cô luôn được mọi người chú ý. Tuy nhiên, người ta chỉ biết cô đến ở và thường rời khách sạn từ sáng sớm đến chiều tối mới quay về. Chẳng ai biết cô đi đâu và làm gì.

Chẳng giống với các du khách khác, nghệ sĩ Hải Lý đến Huế không phải để chiêm ngưỡng những danh thắng của Di sản Văn hoá Thế giới. Cô chỉ đến và đến tất cả những nơi mà hồi năm 1968, giao tranh đã xảy ra và có các chiến sĩ Giải phóng quân đã hi sinh. Đến đâu, cô cũng cố tìm gặp và hỏi han những người lớn tuổi. Cô hi vọng, biết đâu trong số họ lại có người biết chồng cô - một chiến sĩ mang cây đàn guitar đã ngã xuống và đang nằm lại ở đâu đó trong lòng đất.

Hơn một tuần ở Huế, họa sĩ Vĩnh Trung đã đặt chân đến nhiều nơi, hầu như những chỗ nào đáng đến, ông cũng đã từng có mặt. Thế nhưng ông vẫn chưa tìm được "ngôn ngữ" cho bức tranh của mình. Điều đó làm ông thao thức, trằn trọc. Cuối cùng, sự kiên trì cũng có giới hạn. Ông cảm thấy mình bất lực nên đành dậy tháo giá vẽ và thu xếp hành lí để sáng mai ra ga về sớm. Xong xuôi, ông ra ban công vươn vai, thư giãn.

Trời không một gợn mây. Trăng sáng vằng vặc. Họa sĩ Vĩnh Trung thấy nghệ sĩ Hải Lý đang lững thững đi trên cầu Ga. Hôm nào cũng đi suốt ngày mà chưa đủ ư? Sao giờ này, phụ nữ mà dám đi một mình? Đi dạo dưới ánh trăng để tìm cảm giác chăng? Phải đi theo cô ta mới được! Mà ở đời, có những cái chỉ có thể cảm nhận được trong sự thanh vắng, tĩnh lặng đấy thôi!... Nghĩ thế nên ông liền quyết định đi theo.

Đến cầu Bạch Hổ thì họa sĩ Vĩnh Trung đuổi kịp nghệ sĩ Hải Lý. Từ đây hai người như hình với bóng lặng lẽ đi trong đêm. Nghệ sĩ Hải Lý đi chậm rãi, thong thả. Họa sĩ Vĩnh Trung phải điều chỉnh tốc độ, luôn giữ một khoảng cách vừa phải để nghệ sĩ Hải Lý không biết ông đang là "cái đuôi" của cô ta.

Đến Nghinh Lương Đình, nghệ sĩ Hải Lý dừng lại. Họa sĩ Vĩnh Trung cũng thế. Họ nhìn thấy mặt nước sông Hương lăn tăn gợn sóng, lóng lánh như dát bạc dưới ánh trăng. Họ nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng như một nét sơn son giữa nền trời thếp vàng. Họ nghe thấy tiếng sóng vỗ dào dạt, tiếng gió thổi vi vu, tiếng ngọn quốc kỳ phần phật bay trong gió. Họ đứng đó rất lâu để lặng nhìn và lắng nghe hồn thiêng sông núi.

Bỗng nghệ sĩ Hải Lý đột ngột quay về. Lần này, khác với lúc đi, cô vội vã như đang có việc gì gấp gáp, như đang rượt đuổi một cái gì đó vô hình ở phía trước. Họa sĩ Vĩnh Trung phải vừa đi, vừa chạy mới không bị bỏ rơi.

Về phòng, mệt mỏi, hoạ sĩ Vĩnh Trung lăn ra nằm. Một lúc sau, ông nghe tiếng đàn guitar từ phòng của nghệ sĩ Hải Lý vọng sang. Tiếng đàn từ nhẹ nhàng, tươi vui chuyển sang tưng bừng, rộn rã rồi dữ dội, réo rắt và kết thúc êm đềm, dào dạt. Ông nhận thấy phần đầu của bản nhạc vừa nghe rất quen thuộc, còn phần sau thì hoàn toàn mới lạ. Giai điệu tiết tấu của hai phần tuy có sự khác nhau nhưng điều mà nó biểu hiện chỉ là một. Điều này làm ông phân vân. Ông thấy người rạo rực, bồn chồn. Hình ảnh của bức tranh ông muốn vẽ bấc giác hiện lên trước mắt. Phút xuất thần đã đến. Ông vùng dậy căng giá vẽ. Nhưng khi cầm cọ, tay ông lại ngập ngừng. Ông chưa thể thể hiện được hình ảnh mới hiện ra bằng đường nét, màu sắc cụ thể.

Cái trong đầu chưa đủ chín nên họa sĩ Vĩnh Trung không vẽ được nó. Cái giây phút hiếm hoi của sáng tạo đã đến nhưng ông không nắm bắt được. Cuộc đời của người nghệ sĩ có được mấy giây phút hiếm hoi này! Ai đánh mất nó, người đó sẽ chẳng có gì. Biết thế, ông muốn được nghe bản nhạc một lần nữa. Song, ông ngại - cái ngại của một người biết tự trọng. Không ngại sao được, khi đã cả chục ngày ở cạnh nhau, lại chỉ cách một hành lang nhỏ hẹp, mở cửa ra là giáp mặt nhau nhưng ông chưa hề hỏi han, trò chuyện với người ta. Giờ này, đã nửa đêm, gõ cửa vào phòng người ta coi sao được. Tuy vậy, cuối cùng, máu nghề nghiệp cũng đã chiến thắng sự mặc cảm. Ông mạnh dạn gõ cửa người "láng giềng".

Ba tiếng cốc...cốc...cốc đanh gọn vang lên. Đáp lại là một âm thanh ngập ngừng:

- A...i...?

- Tôi! Tôi là người ở phòng đối diện với chị đây, - Hoạ sĩ Vĩnh Trung vội vàng đáp.

Cánh cửa hé mở ánh sáng oà ra. Hai người nhìn nhau như quen, như lạ. Họa sĩ Vĩnh Trung nhanh nhẩu phân trần:

- Xin lỗi, tôi đã gõ cửa phòng chị vào lúc này.

Nghệ sĩ Hải Lý nhếch mép cười và khẽ gật đầu:

- Không sao. Chắc ông có việc gì cần?

Họa sĩ Vĩnh Trung mừng rỡ:

- Vâng! Vâng! Tôi muốn hỏi chị điều này.

Nghệ sĩ Hải Lý hất tay, nghiêng mình kiểu cách:

- Thế thì mời ông vào!

Vừa ngồi xuống ghế, họa sĩ Vĩnh Trung đã chủ động mào đầu:

- Chị đánh đàn hay quá!

- Không dám! Ông quá khen. - Nghệ sĩ Hải Lý đáp một cách xã giao.

Họa sĩ Vĩnh Trung tỏ vẻ dè dặt:

- Xin lỗi, tôi ít biết về âm nhạc. Hỏi khí không phải, bản nhạc chị vừa đánh là của ai?

Nghệ sĩ Hải Lý đưa mắt nhìn cây đàn, giọng miễn cưỡng, chắc nịch:

- Của tôi.

Họa sĩ Vĩnh Trung tò mò:

- Chị đã công bố nó bao giờ chưa?

- Chưa! - Nghệ sĩ Hải Lý kiệm lời đáp.

Họa sĩ Vĩnh Trung chăm chú nhìn cây đàn rồi quay sang chủ của nó:

- Nói chị đừng giận, trước đây, tôi đã được nghe phần đầu của bản nhạc này nhiều lần. Không tin, chị cho mượn cây đàn, tôi sẽ đánh cho chị nghe.

Nghệ sĩ Hải Lý trố mắt hỏi:

- Sao anh biết?

- Tôi nghe bạn tôi đánh nhiều lần và được anh ấy tập cho.

Nghệ sĩ Hải Lý gấp gáp hỏi:

- Anh ấy là ai?

- Anh ấy là tiểu đội trưởng của tôi.

- Anh ấy tên gì?

- Quốc Việt. Nguyễn Quốc Việt.

Nghệ sĩ Hải Lý chồm về phía họa sĩ Vĩnh Trung:

- Anh biết mộ chồng tôi ở đâu chứ?

Họa sĩ Vĩnh Trung giật mình:

- Sao? Chị nói sao?

Nghệ sĩ Hải Lý không trả lời, ngả người về phía sau, chăm chú nhìn họa sĩ Vĩnh Trung.

Sau những phút im lặng kéo dài, họa sĩ Vĩnh Trung thong thả kể:

- Hồi ấy, chúng tôi vào giải phóng Huế. Khi địch phản công tái chiếm, tôi bị thương nặng, được đưa ra hậu cứ. Anh ấy cùng anh em ở lại. Bị địch bao vây, anh ấy đã lệnh cho mọi người rút lui, một mình ở lại kháng cự, cầm chân địch và hy sinh. Không ai tìm thấy xác anh ấy. Có lẽ anh ấy đang yên nghỉ đâu đó trong lòng đất của thành phố này.

Nghệ sĩ Hải Lý ngồi nghe, mặt biến sắc, mắt đỏ hoe. Khi nghe người đồng đội của chồng mình kể xong, chị run run cầm cây đàn đưa cho ông ta. Người cựu chiến binh mân mê cây đàn một lúc rồi say sưa đánh. Những giọt nước mắt đua nhau lăn trên đôi má tái nhợt của người quả phụ làm những ngón tay của ông như có hồn.

Khi nốt nhạc cuối cùng vừa tắt, nghệ sĩ Hải Lý lau nước mắt, nói trong tiếng nấc:

- Cảm ơn anh. Đó là phần anh Việt sáng tác. - Cô vừa nói, vừa với cây đàn - Còn đây là của tôi.

Nghệ sĩ Hải Lý âu yếm ôm cây đàn, trông hệt như người mẹ đang bế con ru. Những ngón tay biết nói của cô làm cây đàn ngân lên những tiếng lòng sâu lắng. Họa sĩ Vĩnh Trung chăm chú nhìn và nghe, không bỏ sót một động tác và âm thanh nào. Khi thấy nghệ sĩ Hải Lý buông đàn, ông đột ngột đứng dậy:

- Cảm ơn. Cảm ơn chị.

Nghệ sĩ Hải Lý chưa kịp nói gì thì cánh cửa phòng mình đã đóng lại.

Trưa hôm sau, khi ra về, nghệ sĩ Hải Lý ghé phòng của họa sĩ Vĩnh Trung để tặng ông ta bản nhạc mà cô vừa kí âm xong. Cửa phòng họa sĩ khép hờ, cô gõ cửa mấy lần nhưng không nhận được sự hồi âm nào. Cô băn khoăn và quyết định đẩy cửa bước vào. Trước mắt cô, họa sĩ đang gục ngủ trên chiếc ghế trước giá vẽ. Chắc là ông ấy đã thức suốt đêm. Nghĩ thế, cô không nỡ đánh thức ông ta. Cô rón rén bước đến đứng xem bức tranh. Bức tranh đang vẽ dở nên cô chưa thể hiểu hết ý nghĩa của nó. Cô chỉ biết lư hương trước đài liệt sĩ được tác giả đặc tả là hình ảnh chiếc đàn guitar cách điệu. Những làn khói hương mỏng mảnh bay trông như những sợi giây đàn đang rung lên. Phía sau là thành quách, lâu đài, lăng tẩm và xa xa thấp thoáng những công trình hiện đại. Bên trái là hai đoàn tàu đang giao nhau ở ga Huế. Màu sắc của bức tranh từ tím nhạt mờ ảo chuyển sang tươi sáng...

Tỉnh dậy, thấy bản nhạc cài trên bức tranh của mình và thấy bên phòng của tác giả bản nhạc, nhân viên khách sạn đang tiếp nhận người khách mới đến, họa sĩ Vĩnh Trung tất bật chạy ra ga. Khi ông vào được trong ga thì đoàn tàu đã rùng rùng chuyển bánh. Thấy cánh tay của nghệ sĩ Hải Lý vẫy vẫy, ông lao đến. Ông đưa tay để nắm bàn tay của cô ấy đang cố chìa ra ngoài cửa sổ của con tàu nhưng không được, khoảng cách cứ xa dần, xa dần. Ông chỉ kịp vừa chạy, vừa nói vọng theo:

- Chị cho phép tôi lấy tên "Thời gian" của bản nhạc đặt tên cho bức tranh nh...é...

Nghệ sĩ Hải Lý nói câu gì đó nhưng họa sĩ Vĩnh Trung nghe không rõ. Ông chỉ thấy cô ta gật gật đầu và cười rất tươi.

Khi đoàn tàu khuất hẳn ở phía bên kia cầu Bạch Hổ, họa sĩ Vĩnh Trung thẫn thờ trở về khách sạn. Ông khoá trái cửa phòng, tiếp tục hoàn thành bức tranh.

Phía nhà ga thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng còi tàu. Nơi đó đã, đang có nhiều người rời và đến Huế với những lí do, cảm hứng khác nhau.

Trại sáng tác VHNT TTH-2003
Thanh Thuỷ, 15-25/7

N.Đ.S.T
(177/11-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VIỆT HÀVọng đi vào núi. Tại sao phải đi vào núi thì Vọng mong manh biết, còn sẽ đi vào núi như thế nào thì anh không biết. Nắng của chiều ngần ngừ trên một đường mòn và đường mòn heo hút cỏ dại đến đây thì chia hai.

  • HÀ KHÁNH LINHGiáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân thường nói với các sinh viên của mình thuở còn ấu thơ bà tin những chuyện cổ tích là có thật, từ đó bà đã sống và hành động theo tinh thần cổ tích. Khi đã thành danh, bà thường ngẫm nghĩ đối chiếu mình với các nhân vật trong cổ tích. Nhiều người lấy làm ngạc nhiên khi thấy chuyện cổ tích đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách của một con người như giáo sư tiến sĩ Hoàng Lập Xuân. Càng ngạc nhiên hơn, khi biết rằng những chuyện cổ tích bà được nghe kể khi còn nhỏ không phải do ông bà nội ngoại, không phải do cha mẹ...

  • HƯỚNG DƯƠNGTết đã gần đến rồi. Những ngày này mọi người chỉ nghĩ đến một việc là chơi gì trong ngày Tết? Trước đây, cuộc sống thiếu thốn thì Tết là dịp để ăn uống cho no say đầy đủ - Vậy mới gọi là ăn Tết. Còn giờ, mọi sự dinh dưỡng thừa mứa, đàn ông bụng phệ nhan nhản, đàn bà đi hút mỡ thường kỳ, bệnh béo phì của trẻ em gia tăng. Ăn uống là kẻ thù của con người. Vậy nên, Tết không còn là ăn Tết nữa mà là vui Tết, chơi tết.

  • PHẠM ĐÌNH TRỌNGChưa bao giờ Ngay có ý nghĩ rời Hà Nội đến sống ở vùng đất khác thế mà anh đã đột ngột đưa cái gia đình bé nhỏ không còn nguyên vẹn của anh đi vào thành phố phía Nam cách Hà Nội ngót hai ngàn cây số. Anh đi như chạy trốn để rồi càng ngày anh càng nhớ quay quắt nơi anh đã để lại cả một thời tuổi trẻ đẹp đẽ.

  • THU NGUYỆTTrắng và trắng. Muột thơm và tinh khiết. Mặt đất dường như đỏ và mịn hơn khi được trải mình ra đón nhận sự nương tựa dịu dàng của những cánh hoa sứ ấy. Tôi khẽ khàng nhặt một bông sứ nhỏ, không đưa lên mũi ngửi như thói thường mà trang trọng áp vào tai. Trong làn hương tràn ngập, tôi nghe vẳng tiếng chuông ngân đẫm mát. Ai đó ơi, hãy một lần thử xem, nhặt một bông sứ nhỏ sân chùa, nhè nhẹ áp vào tai, sẽ nghe thấy những âm thanh và làn hương kỳ diệu! Cái cảm giác lạ lùng mà tôi đoán chắc rằng ai đó sẽ bất ngờ thấy mình khác hẳn đi.

  • PHẠM THỊ ANH NGAVới tôi mạ không có công ơn mang nặng đẻ đau, nhưng mạ đã thực sự ban cho tôi sự sống: sau khi lần lượt sinh bốn người con gái đầu lòng, lần thứ năm chín tháng cưu mang và "vượt cạn mồ côi một mình" mạ đã sinh ra anh, người sau này sẽ là "một nửa" của đời tôi.

  • PHẠM THỊ XUÂNTừ ngày Hoạt được đề bạt lên phó giám đốc, Mùi bắt đầu tiến hành một cuộc cách mạng trong gia đình. Nhìn vào đâu, vào cái gì, Mùi cũng chưa thấy nó xứng đáng với địa vị mới của chồng. Ngôi nhà ba gian vừa xây cách đây không lâu, bây giờ nó đã trở nên lạc hậu trong mắt Mùi. Mùi nghĩ, giá như hồi ấy mà làm theo kiểu nhà hộp thì bây giờ có phải đã lên thêm được một tầng như một số người quanh đây không.

  • HƯƠNG LANTuấn nhìn đồng hồ, rồi lại đi lui, đi tới không biết là lần thứ bao nhiêu trong buổi sáng này trên hành lang của Tòa án nhân dân Thành phố. Vẫn còn 5 phút nữa mới đến giờ, nhưng Tuấn có cảm giác giận Hương, có lẽ cô ta không đến, cô ta muốn gây khó dễ cho mình... Tuấn thầm nghĩ và lòng anh hiện lên một chút đay nghiến với người phụ nữ đang còn là vợ anh trong vài tiếng đồng hồ nữa.

  • BÙI MINH QUỐCNgày hôm ấy là một ngày không có gì đặc biệt trong cuộc sống cực nhọc, buồn tẻ của giáo sư Lê Khương- một ông già ngót sáu mươi tuổi mà vẫn sống độc thân. Nhưng rồi có một sự đặc biệt đến với ông vào lúc gần nửa đêm. Sau khi rà sửa lại lần thứ ba mấy chục trang cuối tập bản thảo một công trình mới nhất của mình, giáo sư đặt lưng xuống giường ngủ thiếp đi. Và, như thường lệ, ông bắt đầu thấy chiêm bao.

  • DƯƠNG THÀNH VŨBuổi sớm maiSông thức dậyMột mìnhTrôi mải miết    (René Char)

  • ĐOÀN BÍCH HỒNGBà lão ngồi bất động nơi cây cầu giơ một khúc gỗ khẳng khiu đỡ lấy sàn nhà. Trong lúc liếc nhìn bóng mình lao chao trong cái màu xanh rêu đùng đục của dòng sông đang gắng gỏi vài mét nước cuối cùng trước khi nhập vào lòng biển, bà cố ghi nhận cái thời khắc quan trọng mà bà cảm thấy nó đang đến gần.

  • NHƯ BÌNH1. Đực và cái. Một đứa con trai đứng bên một đứa con gái là giống đực đặt bên giống cái. Còn nhỏ chúng là những đứa trẻ, không ngại ngùng bởi vấn đề giới tính. Trưởng thành, hai giống bên nhau tạo sức hút và nảy sinh cái gọi là tình yêu. Các cụ ta xưa rất hiểu quy luật giới tính này. Chả thế mà cứ nhốt hai giống vào một phòng là thành vợ chồng.Bố mẹ tôi cũng là một cặp như thế.

  • NGUYỄN VĂN ĐỆThuần ra bến thuyền vào lúc thuỷ triều đang lên. Lúc này là nửa đêm. Trăng hạ tuần trong như con cá mòi tháng bảy nhảy hất lên từ mặt biển treo mình giữa nền trời xanh ngát. Gió tây se lạnh, gió thổi từ đất liền ra giộng rừng phi lao reo lên cùng với tiếng vi vu, vi vút, gió thổi vào ngọn sóng làm hắt lên những tia sáng.

  • NGUYỄN THANH MỪNGĐã bát tuần, ông vẫn chưa nghĩ đến cái già. Đó là ông nói vậy, bô lô ba la trước bàn dân thiên hạ, trong đó tất nhiên không thiếu cả bạn bè, nhất là những người đáng tuổi con cháu nhưng được ông tôn vinh là thần tượng của quốc gia, thậm chí quốc tế nữa.

  • NHẤT LÂM          Truyện ngụ ngôn hiện đạiTrong đàn chó săn của ông Mỗ thì Fóc vào loại anh cả đỏ. Ngoài chân cao, mũi thính, mình dài, chạy như tên bắn... nói chung những gì cần cho một con chó săn đích thực thì Fóc có cả.

  • NGUYỄN TRƯỜNG                           Nơi hầm tối là nơi sáng nhất          (Thơ Dương Hương Ly)

  • TRẦN THUỲ MAINăm nay mùa đông lạnh hơn hẳn mọi năm. Gió cao nguyên cứ tràn qua, tràn qua từng đợt, những bông quỳ chấp chới vàng như sóng. Quỳnh bảo tôi: Gió ở đây một đi không trở lại, khác ở Huế. Gió từ sông Hương thổi lên là gió rất đa mang, thổi tà áo bay dùng dằng, như trong câu hát ngày xưa "Gió bay từ muôn phía...".

  • HẢI THITôi lớn lên ở một ngôi nhà nhỏ ven sông. Con sông nhỏ chảy qua một vùng quê hẻo lánh. Nhà tôi và nhà Khan đối diện nhau trên dòng trôi quê mùa ấy, chỉ có điều nhà tôi thì quay mặt ra sông, còn nhà Khan thì quay lưng ra sông, chính vì thế mà thuở nhỏ, mỗi lần tắm sông cười đùa ầm ỉ, tôi hay bị ba tôi rầy la nhiều hơn, vì ba tôi chỉ cần ngồi trên nhà đưa mắt là thấy ngay tôi đang trèo lên những bè lục bình để làm công chúa, còn ba Khan thì chỉ trông thấy Khan ném bùn đất vào cô công chúa kỳ khôi mỗi khi ông có việc phải ra đằng sau bếp.

  • NGUYỄN VIỆT HÀThư viện, nơi mà tôi sẽ tả kỹ, là một nơi tôi đã nhớ và bị nhớ rất lâu. Không phải ở đó tôi đã lần đầu yêu và lần đầu hôn. Tôi nhớ nó vì có một truyện kỳ dị, cái truyện đó rồi sẽ đẩy tôi suýt nữa trở thành một thứ bải hoải rẻ rách.

  • XUÂN ĐÀITôi làm đơn xin thôi việc, dù biết làm như vậy là phá vỡ hợp đồng đã ký kết với công ty. Tôi phải bồi hoàn. Là nhân viên kiểm toán, tôi không thể tiếp tục làm theo sự chỉ đạo của sếp, cộng tác với doanh nghiệp, đồng lõa với doanh nghiệp, sáng tác ra những con số ma để đối phó với thanh tra. Có tờ báo đã giễu cợt việc làm này là quân trộm cắp cộng tác với quân siêu trộm cắp, có lẽ nhà nước nên lập thêm công ty kiểm toán của kiểm toán.