Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Đoàn Văn Chúc qua kí họa của Bùi Xuân Phái (22/11/1975). Theo nhà thơ Lê Đạt, chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân
Người thầy và nhà nghiên cứu
Sinh năm 1926, Đoàn Văn Chúc vẫn kịp trưởng thành trong môi trường giáo dục Pháp – Việt trước khi nó dần lụi tàn sau năm 1945. Vốn tri thức Tây học và nhất là tiếng Pháp vững chắc sẽ thúc đẩy Đoàn Văn Chúc dám phiêu lưu trong sự lựa chọn nguồn hiểu biết cho mình. Nhưng cũng phải mất hơn 20 năm tham gia kháng chiến rồi công tác văn hóa quần chúng, ông mới có điều kiện bắt tay vào công việc nghiên cứu.
Trong khoảng thập niên 1970, vượt qua những rào cản và sự tự khép kín của xã hội, Đoàn Văn Chúc đã tiếp cận, đọc sâu nhiều trước tác của J. Frazer (1854-1941), S. Freud (1856-1939), E. Cassirer (1874-1945), G. Bouthoul (1896-1980), M. Eliade (1907-1986), và đặc biệt là C.Lévi-Strauss (1908-2009)1,… - những bộ khung chỉ dẫn gần như khác hẳn căn nền Marxist. Vì thế các bài soạn giảng của ông - từ năm 1978-1990, ông giảng dạy văn hóa học, xã hội học văn hóa tại Trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa, sau là Đại học Văn hóa Hà Nội - có kênh tham chiếu ở nhiều lĩnh vực khác nhau (phân tâm học, triết học, tôn giáo, nhân học…). Bên cạnh đó, ông lần lượt chọn dịch một số công trình mà chỉ số ít giới chuyên môn thực sự mới vỡ lẽ. Bản tính khiêm cung và cẩn trọng hẳn đã làm ông “chậm phẩm”, đến muộn trong những công bố. Nhưng điều đó không xóa mờ tầm ảnh hưởng học thuật của ông trong văn hóa học, xã hội học văn hóa.
Việc nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam có nhiều kiểu dạng. Trước hết và sớm hơn cả là điểm danh, mô tả các đặc sắc, biểu hiện của phong tục tập quán (như Phan Kế Bính mở đầu một cách điển phạm với Việt Nam phong tục, 1916, để về sau có thêm những Nhất Thanh, Toan Ánh nối dài không mấy xuất sắc hơn). Hướng thứ hai là kết hợp khảo cứu và cấu trúc hóa các thành tố văn hóa, diễn giải chúng theo chiều lịch đại mà Việt Nam văn hóa sử cương, 1938, của Đào Duy Anh là mẫu mực. Có thể nhắc đến Văn minh Việt Nam (1944) của Nguyễn Văn Huyên cũng là một trường hợp tiêu biểu của ý thức tái dựng cấu trúc văn hóa-văn minh Việt Nam. Cần nói thêm rằng, cả Phan Kế Bính, Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên, vào thời điểm Đông Tây tiếp xúc đang lệch về phía quyền lực cái mới, đều mang tinh thần duy tân, nên cảm nhận và sự phân tích của họ đều lộ rõ ý hướng phê phán những hủ tục lạc hậu, những khuyết điểm cố hữu của văn hóa truyền thống. Bẵng đi một thời gian chúng ta chỉ có đường lối, có khi là khoa học đường lối văn hóa văn nghệ xã hội chủ nghĩa thì đến thập niên 1980, nghiên cứu văn hóa mới trở lại một cách dồn dập. Lần này, số đông chọn nghiên cứu bản sắc văn hóa và dù theo hướng diễn trình lịch sử, hay hệ thống - cấu trúc, so sánh - loại hình thì về cơ bản, vẫn tập trung đề cao những phẩm tính riêng, đặc trưng không lẫn của Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử xây dựng, kiến tạo quốc gia. Tính chất tái qui tâm truyền thống và tinh thần dân tộc chủ nghĩa thể hiện khá rõ trong loạt nghiên cứu của Trần Văn Giàu (Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, 1980), Hà Văn Tấn (Về sự hình thành bản sắc dân tộc Việt Nam, 1987), Phan Ngọc (Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận mới, 1994; Bản sắc văn hóa Việt Nam, 1998), Hoàng Ngọc Hiến (Sức mạnh văn hóa và sự phát triển của văn minh – trường hợp Việt Nam, 1994), Trần Ngọc Thêm (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, 1996)… Khi bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam được đưa vào nhà trường, thay vì làm đa dạng hóa các cách tiếp cận, phân tích văn hóa, thì nó càng vít chặt người đọc/học vào lối ghi nhớ diễn trình/tiến trình (theo thời/triều đại) và kết cấu thành tố (tự nhiên và xã hội, vật chất và tinh thần) không tránh khỏi cứng nhắc. Ngay cả một công trình rất dày dặn, chặt chẽ và khúc chiết gần đây là Văn hóa Việt Nam truyền thống – một góc nhìn (2011) của Nguyễn Thừa Hỷ thì thao tác phân loại, liệt kê vẫn nổi bật.
Có thể thấy Đoàn Văn Chúc có tương đồng nhưng cũng khác biệt so với diện mạo chung của những nghiên cứu trên. Trước tiên, ông vẫn đi theo lối phân loại các thành tố của văn hóa: lễ-tết-hội; giá thú; tang; trò chơi; thời kiểu… Nhưng ngay khi điểm mặt mỗi thành tố, ông có xu hướng lọc ra những ý nghĩa, cấu trúc và chức năng phổ quát của chúng. Vì thế, ông chỉ lấy Việt Nam làm mẫu cho các quan sát rộng hơn theo hướng liên ngành. Chẳng hạn, về lễ-tết-hội, trò chơi: Nếu Phan Kế Bính, Nhất Thanh hay Toan Ánh chủ yếu liệt kê, giới thiệu, nghĩa là chỉ dừng mức cung cấp thông tin (thời gian, địa điểm, cách thức), thì Đoàn Văn Chúc đi đến phân tích (tại sao và như thế nào) sự phát sinh, lẽ tồn tại và các giá trị của chúng. Khi đó, ông sẽ vận dụng lí thuyết về nghi thức, chức năng, biểu tượng, cấu trúc, tâm lí…, để diễn giải, đánh giá. Sẽ lí thú và cảm thấy có “hóc hiểm” khoa học hơn khi ông tham chiếu lễ hội theo góc nhìn của S. Freud, rằng “dù hơn thường hay khác thường, sự sống của mỗi thành viên trong khoảnh khắc ấy cũng tràn vượt khuôn khổ sống hàng ngày”, “một thứ vô trật hay thái quá được tổ chức và được phép”2; khi ông phát hiện trong các kiểu loại trò chơi (thể lực, tính toán, thị lực) “những được phép” và “những cấm kỵ” mà người chơi phải nắm bắt3; khi ông mổ xẻ nhiều khái niệm thoạt tiên tưởng là một nhưng nội hàm khác xa nhau: ứng xử và xử sự, tác phong và nếp sống, phong tục và phong hóa4. Chính vì đuổi theo lí thuyết, thậm chí chủ ý nâng vấn đề thành lí thuyết nên Đoàn Văn Chúc không có thiên hướng ngợi ca sự đặc sắc, phong phú của văn hóa/phong tục Việt. Ông tỏ ra trầm tĩnh để nhìn thấy, đặt cạnh cái riêng biệt trong phổ quát, chất địa phương trong tính toàn cầu. Ở vài điểm chính yếu, cách ông triển khai các chủ đề trong văn hóa học, xã hội học văn hóa có hơi hướng nhân học văn hóa (cultural anthropology) là khoa học/lí thuyết liên ngành rộng bậc nhất.
Dấu ấn thuật ngữ
Hiểu sâu những vấn đề quen thuộc hoặc khơi gợi một vài vấn đề mới mẻ cũng là một năng lực, tính cách khoa học khá riêng của Đoàn Văn Chúc. Hiểu sâu không chỉ vì có kiến thức rộng mà còn vì tâm thế “cứng đầu” không chịu theo lối mòn. Không ít lần, ông phải dụng đến chiết tự (Hán), chua ngoại ngữ (Pháp) và cộng với sự “nghiệm sinh” của mình để cắt nghĩa một khái niệm thật ưng ý. Đơn cử, liên quan đến văn chương dân gian, một loại hình văn hóa dân gian, ông dùng “diễn từ dân gian” (chua là “discours populaires”) để chỉ ngạn ngữ (tục ngữ), câu đố và diễn ngữ là những thể loại được các nhà folklore yên tâm với cách sắp đặt của mình. Từ chỗ đọc sâu, tất yếu Đoàn Văn Chúc sẽ có lợi thế bàn sớm, bàn kĩ nhiều vấn đề trong chủ ý cập nhật, thu thập thông tin vừa của sách vở vừa của đời sống đương thời. Ông đã dành nhiều trang viết để giới thuyết biểu tượng, nhân học văn hóa, phân tích thời kiểu, trường văn hóa, thời gian rỗi và hoạt động rỗi, mà hôm nay chúng ta bắt đầu thấy độ khả dụng của chúng trong nghiên cứu khoa học xã hội - nhân văn nói chung. Không phải ngẫu nhiên mà sách của ông, viết lẫn dịch, là nguồn cung khá nhiều thuật ngữ cho học giới. Nhưng có lẽ, ngay cả độc giả chuyên môn cũng cảm thấy “lạ lẫm” (hoặc ấn tượng lâu dài) với nhiều từ/thuật ngữ mang phong cách diễn đạt của Đoàn Văn Chúc (canh cải, thời kiểu, đồ hình, cách người, môi vật, thực thao, nghi điển, thượng tồn, dư sinh, biên bàng, trừu suất, cảnh diễn, lai pha…). Cá nhân tôi thì trộm nghĩ, ngoài chuyện ông trọng chữ đến mức kỳ công lựa chọn, thì rất có thể, ông và những trí thức cùng thời (Trần Dần, Lê Đạt, Huyền Giang…) không muốn giản đơn hóa suy tư, không muốn dự vào chuẩn ngôn ngữ, phát ngôn của thế thời đơn giọng. Cách tốt nhất để giữ khoảng cách với văn hóa quần chúng quen dùng chung khẩu vị lời lẽ nôm na là hãy cứ tạo những văn bản lấy trí tuệ thông thái làm điều kiện thưởng thức.
Cũng xin nói thêm một điểm đáng chú ý trong “cách người” Đoàn Văn Chúc: ông là bạn tri âm kiểu “một lứa bên trời” với những Hoàng Cầm, Lê Đạt, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Văn Cao, Bùi Xuân Phái, Dương Tường, Đỗ Lai Thúy… Bản thân ông cũng làm thơ với một phong cách rất độc đáo. Nhà thơ Lê Đạt trong điếu văn “Vĩnh biệt Chúc bờ sông” tháng 10/1996 cho biết chính Đoàn Văn Chúc là tác giả của “Phái phố” nổi tiếng mà nhiều người vẫn tưởng là của Nguyễn Tuân. Từ hình ảnh “Chúc bờ sông”, tôi hình dung được tâm thế kẻ sĩ biết giữ đạo nhà, biết lảng tránh những mời gọi chưa hẳn đã tốt lành của danh vị và danh tiếng, biết lắng nghe những tiếng nói sách vở đôi khi mới lạ và khác biệt mà nhiều người chưa thể nhận ra. Có lẽ không sợ sai khi nhận xét ông là người không nhập vào đám đông mà vẫn hoàn toàn đủ vị thế trở thành tâm điểm quy chiếu.
Đoàn Văn Chúc để lại nhiều công trình nghiên cứu, dịch phẩm quan trọng. Trong đó, về nghiên cứu, đã xuất bản: Những bài giảng về văn hóa (1994), Văn hóa học (1997), Xã hội học văn hóa (1997); về dịch thuật : Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (Trần Đức Thảo, 1996), Vật tổ và cấm kỵ (S. Freud, 1998), Những tiếng nói đã mất (J. Duvignaud, 2011), Những cấu trúc xã hội học (G. Bouthoul, 2011), Những mảnh ghép văn hóa (Nhiều tác giả, 2016). Hiện còn Triết học các hình thái biểu tượng (của E. Cassirer) và Bàn về lịch sử tôn giáo (của M. Eliade, dịch cùng Đỗ Lai Thúy) chưa in. |
2Đoàn Văn Chúc (1997a), Văn hóa học, Viện văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr. 136
3Đoàn Văn Chúc (1997a), Sđd, tr.249
4Xem thêm Đoàn Văn Chúc (1997b), Xã hội học văn hóa, Viện Văn hóa & NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, tr.123-131.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.
Sách được các sư cô Thiền viện Viên Chiếu lược dịch, biên soạn từ nhiều nguồn tư liệu, chủ yếu là tư liệu chữ Hán, tiếng Anh, giúp người đọc hiểu thêm con đường tu tập của pháp sư Huyền Trang.
Soạn tâm thế an nhiên khi bước vào tuổi già, nhẹ nhàng đón đợi niềm vui, nỗi buồn trong cuộc sống... là điều mà trang viết của vị bác sĩ mê văn thơ đem đến cho độc giả.
Phó giáo sư Đỗ Lai Thúy thông qua cuốn sách "Vẫy vào vô tận" đã giới thiệu 17 chân dung các nhà văn hóa, nhà nghiên cứu có đóng góp cho con đường học thuật và tư tưởng của đất nước.
BỬU NAM
Nguyễn Quang Lập - Trần Thùy Mai - Ngô Minh - Phạm Tấn Hầu - Nguyễn Quang Vinh - Hoàng Thị Duyên(*)
NGUYỄN DUY TỪ
Kỷ niệm 120 năm ngày sinh (1894), 60 năm ngày mất (1954) của nhà văn Ngô Tất Tố
PHẠM ĐỨC DƯƠNG
GS.TS Phạm Đức Dương, nguyên là Viện trưởng Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Tổng biên tập 2 tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á và Việt Nam Đông Nam Á; Chủ tịch Hội Khoa học Đông Nam Á, Viện trưởng Viện nghiên cứu Văn hóa Phương Đông...