Bửu Ý nhìn lại đời sống văn học miền Nam giai đoạn từ 1954 – 1975

14:32 30/04/2017

Giáo sư Bửu Ý, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Ý, sinh năm 1937 tại Huế. Ông vừa là nhà giáo, nhà văn, vừa là dịch giả của các tiểu thuyết nổi tiếng như Nhật kí của Anna Frank, Đứa con đi hoang trở về, Bọn làm bạc giả của André Gide, Con lừa và tôi của Juan Ramón Jiménez; Thư gửi con tin của Antoine de Saint-Exupéry… đăng trên các tạp chí Mai, Văn, Diễn đàn, Phố Văn (trước 1975).

Với khoảng thời gian sống và làm thư ký cho tạp chí Mai ở Sài Gòn từ năm 1963 đến 1967, ông là một trong những nhân chứng lịch sử quan trọng cho nền văn học đô thị miền Nam trước 1975.

* Thưa ông, ông nhận định như thế nào về tình hình hoạt động của các tờ báo, tạp chí ở Sài Gòn từ 1954 đến 1975?

Sau 1954, Sài Gòn tiếp nhận số lượng lớn dân cư từ miền Bắc vào, trong số đó nhiều người là văn nghệ sĩ, có nhạc sĩ, ca sĩ, nhà văn viết tiểu thuyết, truyện ngắn và cả những người đứng ra làm chủ nhiệm các tờ tạp chí lớn. Nhiều tờ tạp chí, báo mà ban đầu não đều là người miền Bắc như tờ Sáng tạo (1956) - tạp chí quan trọng nhất thời bấy giờ, tạp chí Văn học mà chủ bút là Phan Kim Thịnh, thư ký tòa soạn tạp chí Văn là ông Trần Phong Giao, hay tờ Bách Khoa do Huỳnh Văn Lang điều khiển, tờ tạp chí Thế kỉ hai mươi có Nguyễn Khắc Hoạch - một nhà văn, nhà báo, Giáo sư Đại học Văn Khoa - làm chủ nhiệm. Còn tôi thì làm thư ký cho tờ Mai, và cũng chỉ có tôi là người miền Trung vào, còn lại toàn người miền Bắc cả. Lúc bấy giờ ở Huế cũng có một tờ tạp chí vô cùng quan trọng, đó là tờ Đại học, tập hợp cả những cây bút nổi tiếng ở Huế lẫn Sài Gòn. Nhờ có báo chí cởi mở, nở rộ (dù chịu kiểm duyệt bởi Sở thông tin nhưng rất nhiều khi Sở thông tin kiểm duyệt chỉ cho có chứ không theo sát các tờ văn nghệ) trên một vùng đất như vậy thì nó sẵn sàng tiếp thu tư tưởng của nước ngoài, của Tây phương đến.

* Xin ông cho biết rõ hơn các tờ báo/ tạp chí trước 1975 đã tiếp thu tư tưởng phương Tây mạnh mẽ như thế nào?

Hồi đó những tờ báo miền Nam luôn luôn sẵn chực để ngợi ca và kỷ niệm những gương mặt lớn trong văn học nghệ thuật thế giới. Khi có một hiện tượng như cái chết của nhân vật lớn hay kỷ niệm ngày mất của các tiểu thuyết gia thì miền Nam luôn luôn làm những số báo về họ. Những số báo này trở lại giúp đỡ cho sinh viên rất nhiều trong học tập. Sinh viên lúc ấy đọc sách, đọc báo nhiều lắm. Không chỉ sinh viên đọc thôi mà tầng lớp đọc còn xuống cả trường trung học, ở Huế thì có trường trung học lớn như Quốc Học, Đồng Khánh. Học sinh cỡ lớp 11, 12 đã tìm đọc các tờ báo đó rồi cho nên trình độ tư tưởng, tiếp thu rất mạnh và rất bao quát. Chừng đó thôi cũng đủ thấy những tư tưởng mới sẵn dịp là nảy nở trong lòng công chúng.

Những tư tưởng mới này còn phản ánh trong nghệ thuật nữa mà đặc biệt là nhạc và họa. Hồi đó là thời cực thịnh của nhạc và họa ở miền Nam. Nếu kết nối với nữ giới và phong trào nữ quyền ở miền Nam thì lúc bấy giờ họa sĩ họ vẽ tranh thiếu nữ khỏa thân rất nhiều và đạt đến mức nghệ thuật cao. Những hiện tượng này cũng giúp cho phong trào nữ quyền lớn mạnh.

* Nữ quyền du nhập vào miền Nam rồi những họa sĩ mới vẽ tranh thiếu nữ khỏa thân hay những người họa sĩ này có tư tưởng cởi mở rồi, sau đó tư tưởng nữ quyền mới du nhập?

Đó là những người vừa vẽ vừa đọc sách. Họ có rất nhiều tập hội họa trên thế giới nên trước khi vẽ họ đã xem tranh. Chẳng hạn như tranh thiếu nữ hoặc thiếu nữ khỏa thân rất đẹp của Miró, Mondrian… Những họa sĩ miền Nam lúc bấy giờ xem những bức tranh này mà mê mẩn. Và những tác phẩm này không ai kiểm duyệt cả. Họ là Trịnh Công, Đinh Cường, Nguyễn Trung… Họ vẽ không thua gì họa sĩ nước ngoài.

* Việc tiếp thu tư tưởng phương Tây không dễ dàng, vì sao học sinh ở bậc trung học có được trình độ đọc cao đến vậy?

Hồi đó trong xã hội những thú vui tiêu khiển không nhiều nên học trò từ trung học như Đồng Khánh, Quốc Học đều đọc sách triết cả. Họ đọc triết học qua sách/ tạp chí dịch nhưng cũng rất giỏi tiếng Pháp. Năm 1957, tôi vừa học Đại học vừa đi dạy ở trường Quốc học Huế. Vào lớp Đệ nhị, Đệ nhất là toàn nói tiếng Pháp chứ không bao giờ nói tiếng Việt, chỉ khi tôi thấy từ nào khó quá tôi mới viết nghĩa lên bảng.

Những tờ tạp chí hay có các số đặc biệt để tưởng niệm không phải riêng Việt Nam mà còn của nước ngoài. Năm 1960, Albert Camus qua đời vì tai nạn xe hơi. Ông chết bên ấy mà làm rúng động cả bên này. Các trường cứ đem sách của ông ra giảng dạy cho sinh viên. Điều này đã khơi mở cho giới sinh viên, thanh niên hiểu biết vững vàng về những đề tài quốc tế.

Hồi đó sinh viên, học sinh Đồng Khánh, Quốc Học có cái mốt thời thượng: các tác phẩm của tác giả phương Tây vừa ra mắt trên thế giới là có mặt ở Sài Gòn và Huế liền. Chẳng hạn cô học sinh học lớp Đệ nhị trường Đồng Khánh nhét một chiếc khăn mùi soa nhỏ vào tập thơ bằng tiếng Pháp, cầm trên tay đi học. Cái mốt rất đẹp, rất dễ thương.

* Hiện sinh là một trong những tư tưởng phương Tây có ảnh hưởng lớn trên mọi mặt từ lý thuyết đến đời sống của con người miền Nam trước 1975. Thưa ông, vì sao lại có hiện tượng này?

Jean Paul Sartre rất có cảm tình với Việt Nam. Trong những năm 1960, chiến tranh Việt Nam đến thời gây cấn đến mức chịu không nổi, chính bản thân Sartre rất phẫn uất và ông là một trong những người dựng lên tòa án lương tâm thế giới để lên án chiến tranh Mỹ gây cho Việt Nam. Trong một buổi diễn thuyết, Sartre đã đặt trên sân khấu một chiếc bàn thấp, trên chiếc bàn có một cái hộp. Đến giờ diễn thuyết, hội trường đông nghẹt người, họ chen lấn nhau đến nghe vì Sartre nổi tiếng cả thế giới. Sartre bước ra và chỉ vào cái chiếc hộp: Quý vị có thấy trên bàn này có cái gì không? Đây là một cây đàn bầu và chủ nhân của cây đàn này là Việt Nam. Hiện tại, đất nước này đang bị Mỹ xâm lấn, tất cả chúng ta đứng về phía Việt Nam để lên án Mỹ vì đây là quốc gia có chính nghĩa và dũng cảm chống lại cường quốc Mỹ. Một con người vĩ đại của thế giới đã bênh vực ta trước muôn người. Sau 1975, khi ở Việt Nam có hiện tượng người dân di cứ trái phép sang châu Âu, châu Mỹ, Jean Paul Sartre đã yêu cầu Tổng thống Pháp phải tổ chức đưa dân Việt Nam di cư an toàn sang Pháp. Hai hành động của Sartre có phải mâu thuẫn? Hai hành động của Sartre đúng với chủ trương hiện sinh. Chủ nghĩa hiện sinh đưa ra khái niệm trách nhiệm, trách nhiệm với hành động của cá nhân và trách nhiệm với tự do. Hôm nay ta hành động thế này nhưng ngày mai sẽ thay đổi, điều đó chứng tỏ tôi tự do. Chủ thuyết hiện sinh vì thế dễ đi vào đời sống, hành động con người, những giá trị giữa đời. Nó không có một cái gì bảo chứng và luôn thay đổi.

Phải nói thêm, trong giai đoạn miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ có một vài điều kiện thuận lợi tạo cho chủ nghĩa hiện sinh nảy nở dễ dàng. Cái thứ nhất là những người miền Bắc ồ ạt vào Nam, cái thứ hai là nhiều tạp chí/diễn đàn xuất hiện, cái thứ ba là những giáo sư nổi tiếng đã đưa triết học hiện sinh vào sâu trong đời sống xã hội. Một trong số đó gây ảnh hưởng rất mạnh cho thanh niên, sinh viên và giới học thuật là giáo sư Nguyễn Văn Trung. Ông trở về nước sau khi đi du học nước ngoài về nước. Tiếng Việt của ông lại rất giỏi làm nhiều người ngạc nhiên. Chính ông là người viết cuốn Từ điển Triết học và mang vào Việt Nam những khái niệm hiện sinh rất hay như “dấn thân”, “vong thân”, “thoát hiểm”.

* Ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh lên đời sống con người miền Nam rất sâu rộng, đặc biệt là từ các tiểu thuyết của Francoise Sagan, nhưng biểu hiện của lối sống hiện sinh có những yếu tố tiêu cực. Ông có thể cho ví dụ và lý giải thêm về những biểu hiện tiêu cực này?

Chủ nghĩa hiện sinh có những ảnh hưởng tốt nhưng đồng thời đã gây ra nhiều gãy đổ. Có rất nhiều người không đi sâu tìm hiểu chủ nghĩa hiện sinh mà hiểu từng mảng, hiểu cái vỏ bên ngoài nên họ chỉ thấy con người giữa đời đốt thời gian mà sống, sống nhanh, sống vội. Hiểu một cách hời hợt như vậy thì dễ hơn nhiều. Chính nó tạo ra đời sống hời hợt trong xã hội.

Khi châu Âu bước vào thời kỳ hậu chiến, con người cần sống một cách dễ thở thì đúng đó là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa hiện sinh. Nó sinh ra những nhà văn như Francoise Sagan. Còn tư tưởng Jean Paul Sartre gây ra đổ vỡ mang tính triết học. Cái cá nhân cảm thấy cuộc đời khó sống quá, mỗi người phải tự tạo ra cách sống sao cho dễ thở, chứ đừng bắt mình rơi vào ngõ cụt. Đó là vấn đề triết lý cốt lõi, còn bề ngoài của chủ nghĩa hiện sinh thì tạo cuộc sống tự do và nhiều hưởng thụ. Nếu chỉ nhìn mặt ngoài thì rõ ràng ta chưa hiểu chủ nghĩa hiện sinh là gì. Sartre nói Francoise Sagan đâu phải là hiện sinh, cũng đừng hiểu chủ nghĩa hiện sinh qua những nhân vật của Sagan vì đó là lối sống hỗn tạp, phóng túng. Mặt ngoài là cái dễ nắm bắt hơn cả. Ở giai đoạn miền Nam trước 75, chủ nghĩa hiện sinh cạn cợt, hời hợt rất dễ phát triển. Những chuyện yêu đương vội vàng, hối hả, chẳng tha thiết với ai, không trách nhiệm cho điều gì rất phổ biến vì cho con người cảm giác khỏe khoắn, không ràng buộc.

* Ở Sài Gòn sau 1963 xuất hiện hiện tượng 5 nhà văn nữ, các sáng tác của họ xoay quanh giới nữ, tính dục, lối sống phóng khoáng, đây có phải là do ảnh hưởng của Francoise Sagan?

Chưa có lúc nào miền Nam Việt Nam có nhà thơ và nhà văn nữ nhiều và đông đến như vậy mà đa số là người Huế như Nhã Ca, Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Trùng Dương, Minh Đức Hoài Trinh, Ninh Bảo, chỉ có Thụy Vũ là người Sài Gòn. Hiện tượng này nói lên rằng Sài Gòn là nơi thu hút văn nghệ sĩ từ mọi miền nhất ở Việt Nam.

Những nhà văn nữ thì chịu ảnh hưởng trực tiếp những tư tưởng nước ngoài. Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng sự thật đã chịu ảnh hưởng của cuốn tiểu thuyết Lolita của nhà văn Nga Nabokov. Cuốn này rất hay mà đúng là có cả tình thầy trò trong đó. Lúc ấy văn học miền Nam chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết nước ngoài là vì được tiếp nhận đúng thời điểm. Cả sự kiện Lolita lẫn hiện tưởng Buồn ơi, chào mi đều nóng hôi hổi.

Ảnh hưởng của Francoise Sagan đối với 5 tác giả nữ ở miền Nam đúng là có, đặc biệt qua tiểu thuyết Bonjour Trisstesse. Văn chương Francoise Sagan đúng là hiện sinh nhưng đó chỉ là cái vỏ ngoài, cái hình thức chứ không phải nội dung của hiện sinh. Những nét ta gặp bên ngoài như yêu cuồng sống vội, vô trách nhiệm, tự do quá trớn, các nhà văn miền Nam dễ học tập, dễ đưa vào tiểu thuyết hơn. Nhưng nhà văn nữ viết về đề tài này còn là biểu hiện của việc con người phản ứng lại truyền thống. Giáo dục gia đình ở Huế o ép, giới hạn sự tự do của con người, đặc biệt là người nữ. Người nữ có ý thức cá nhân rất mạnh nên chọn cách Sài Gòn để bung vỡ, đòi lại tự do. Ở Huế đâu chỉ có gia đình, còn áp lực họ hàng, bà con, xã hội, không thể sống với tiếng đồn. Dù thế nào đi nữa thì vào miền Nam cũng phóng khoáng hơn. Điều này cũng lý giải vì sao số nhà văn từ Huế vào Sài Gòn nhiều đến vậy.

* Vì sao những nhà văn nữ này không tiếp thu hết nội dung hiện sinh?

Có thể vì đi sâu vào triết học nhiều khi không hiểu hết các khái niệm lớn. Họ đi tiếp thu cái mặt ngoài thì dễ hơn, còn những thắc mắc siêu hình thì khó. Tất cả ai cũng yêu đương, nhất là tuổi mới lớn. Nhà văn bày ra cảnh nhân vật khát khao yêu đương vừa dễ truyền đạt, vừa dễ tiếp thu. Nếu mà viết những nhân vật mang tầm triết học cao quá thì đã chắc gì người đọc hiểu hết. Mà quan trọng nhất vẫn là hấp dẫn được bạn đọc.

* Ông so sánh thế nào về mức độ phổ biến giữa nhà chủ thuyết hiện sinh Jean Paul Sartre và “đứa con hoang” của chủ nghĩa hiện sinh Francoise Sagan ở Sài Gòn trước 1975?

Thời điểm những năm 50, 60 ở Huế lẫn trong Nam, tác phẩm của Jean Paul Sartre có khó đọc hơn Sagan thật nhưng thanh niên vẫn đọc, có người còn đọc ngay tiếng Pháp. Thời ấy ngôn ngữ không phải rào cản đối với người đọc. Riêng tiểu thuyết của Francoise Sagan mỏng và viết dễ đọc nên hầu như ai cũng thích. Đó cũng là yếu tố phụ giúp cho sách bà bán chạy ở Pháp lẫn các nước khác. Học sinh, sinh viên học tiếng Pháp bằng sách của bà cũng nhiều. Nhưng trẻ quá thì đọc hiện sinh của Jean Paul Sartre hay Francoise Sagan cũng không tốt. Mỗi cá nhân phải tự tìm hiểu, tự có giới hạn hành động của mình, chứ không phải đọc một cuốn sách như vậy mà mình bắt chước làm theo hoàn toàn.

* Cũng như Francoise Sagan, tác phẩm hiện sinh của Simone de Beauvoir được du nhập vào miền Nam, vậy bạn đọc miền Nam tiếp nhận bà như thế nào?

Tư tưởng của Simone de Beauvoir khó tiếp thu hơn Sagan nhiều. So với Sartre, Sartre ngoài lập thuyết còn viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, còn Beauvoir lập thuyết nhiều hơn, sáng tác cũng không hay bằng. Qua Simone de Beauvoir ta thấy tư tưởng nữ quyền nhiều hơn. Hằng ngày bà giao du với ông Sartre nhưng lại rất độc lập. Tôi không thể nghĩ ra tác giả nào khác ở thế kỷ XX về tư tưởng nữ quyền vượt qua vị trí của Simone de Beauvoir được.

* Trong đời sống sinh hoạt văn nghệ lúc bấy giờ, ngoài hai nữ nhà văn hiện sinh Simone de Beauvoir và Francoise Sagan, ông còn thấy ảnh hưởng của nhà văn nữ phương Tây nào lên giới trẻ không?

Tôi còn nhớ có một nhà văn rất gần với Francoise Sagan lại sống ở miền Nam Việt Nam là Marguerite Duras. Độc giả khám phá bà qua phim ảnh trước. Khoảng năm 20 tuổi tôi đã xem phim “Barrage contre le Pacifique” chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên Đập ngăn Thái Bình Dương. Truyện và phim của bà này có những nét thơ mộng, tươi mới, cũng có cả nét táo bạo của người phụ nữ bất cần đời, không đếm xỉa đến dư luận.

Ngoài ra tôi còn xem phim Buồn ơi chào mi được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên rất nổi tiếng của Francoise Sagan. Sự xuất hiện của nữ diễn viên chính Jean Seberg gây ấn tượng mạnh vì đầu tóc của cô như con trai. Vì thế tiếp nhận Sagan qua phim ảnh cũng mạnh mẽ hơn tiểu thuyết.

Võ Bảo Trâm (thực hiện)
(SHSDB24/03-2017)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VŨ SỰ

    Ngày xưa, chuyện “chồng già vợ trẻ” cũng là chuyện thường tình. Xứ Huế đầu thế kỷ 20, cũng có những chuyện thường tình như thế. Nhưng trong những chuyện  thường  tình ấy, cũng có vài chuyện “không thường tình”, ngẫm lại cũng vui.

  • Kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh (19/5/1959 - 19/5/2019)

    NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Đã nhắc đến đường Trường Sơn, có lẽ hầu như ai cũng nghĩ đến Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, nhất là khi vị tư lệnh các lực lượng chiến đấu trên con đường huyền thoại này trong những năm chiến tranh ác liệt vừa ra đi ngay giữa lúc các hoạt động tiến tới kỷ niệm 60 năm ngày mở đường Trường Sơn đang diễn ra ở nhiều địa phương, đơn vị quân đội…

  • TÔ HỮU QUỴ

    Nhìn những bọt nước lớn nhỏ bám vào nhau lững thững trôi theo vệ đường, tôi nhớ có ai đã nói với tôi mỗi khi trời mưa, bọt nước không vỡ nhanh mà cứ bồng bềnh trên mặt như thế là cơn mưa sẽ kéo dài thật lâu.

  • TRẦN ĐỨC CƯỜNG(*)

    Ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam kết thúc thắng lợi. Đất nước thu về một mối.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀ

    Đêm qua có một chàng trai nhắn cho tôi: “Có khi em không phải người phàm thật em ạ”.
    (Xin phép anh cho tôi nói ra điều này vì độc giả yêu quý).

  • HÀ LÂM KỲ  

    Tháng 5 năm 1996, nhân gặp nhà thơ Tố Hữu ở Hội Nhà văn, tôi rụt rè nói với ông rằng có cuốn băng về câu chuyện giữa nhà thơ và Bác Hồ. Ông vui vẻ nhận lời nghe lại.

  • BÙI KIM CHI

    Chút hương chiều bảng lảng. Xôn xao lá me gọi hồn con gái. Mây vội vàng đuổi nắng. Bàng bạc sắc lam pha hồng. Trời nhẹ tênh đưa mây xuống thấp.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Sáng nay bầu trời âm u màu xám xịt như muốn sụp đổ với những cơn mưa liên tục xối xả, báo hiệu con nước sắp vượt bờ sông Hương.


  • NGUYỄN BÙI VỢI

  • MAI VĂN HOAN

    Bình Trị Thiên trước đây và Thừa Thiên Huế bây giờ vốn nổi tiếng là nơi có nhiều học sinh giỏi. Các lớp chuyên tỉnh đã được thành lập hơn 12 năm nay.

  • LTS: Sáng ngày 8/11/2018, tại Huế đã diễn ra Hội thảo “Đồng chí Nguyễn Chí Diểu với Cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế” do Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế phối hợp tổ chức. 

  • YẾN LAN
             Hồi ký

    Sau một chuyến đi dài vào mảnh đất tận miền Tây Tổ Quốc, tôi trở về quê, lòng chưa ráo nỗi nhớ đường, nhớ sá, thì trời đã chớm sang thu.

  • TRẦN QUANG MIỄN  

    Có lẽ, cho đến bây giờ bạn bè, người quen biết vẫn thường gọi tôi:
    - Ê Thành Cát Tư Hãn!
    Vai diễn đó đã thực sự tạo sự khác biệt giữa tôi và bạn bè cùng trang lứa lớp Đệ Tam ban C trường Quốc Học.

  • TRỌNG NGUYỄN

    Nhà nghiên cứu lịch sử Ngô Kha kể: “Tết năm 1966, một bà cụ từ bên Lại Bằng (huyện Hương Trà) lặn lội qua Phong Sơn (huyện Phong Điền) thuộc vùng giải phóng để xem chiếu bóng.

  • NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
    (Trích đoạn tuồng lịch sử)

    LTS: Từ thành công của Cách mạng Tháng Tám đến thành công của “Tuần Lễ Vàng” năm 1945, lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ về sức mạnh của quần chúng nhân dân trong cách mạng và khối đại đoàn kết dân tộc trong thực tiễn. Những dấu mốc ấy đã để lại bài học lớn lao đầy ý nghĩa về xây dựng, củng cố và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.

  • NGUYỄN THÁI SƠN

    Trong suốt quá trình lãnh đạo nhân dân làm cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn quan tâm, xem báo chí như một thứ vũ khí tư tưởng sắc bén, là tiếng nói của Đảng và Nhà nước và cũng là diễn đàn xã hội rộng lớn của nhân dân.

  • Kỷ Niệm Ngày Thương Binh Liệt Sỹ 27/7  

    BÙI XUÂN HÒA  
                  Ghi chép 

  • ĐẶNG NHẬT MINH   

    Anh Trần Đăng Nghi trên tôi 7 tuổi, thuộc thế hệ các dì các cậu tôi ở Huế. Tôi biết anh qua dì tôi, bác sĩ Nguyễn Ngọc Toản và ông anh họ tôi là kỹ sư Lê Đình Cát, những người bạn chí thân của anh từ thuở cắp sách đi học ở Huế cho đến khi đã về già. 

  • TÔ NHUẬN VỸ

    Có những nội dung, định hướng trên tạp chí bây giờ đã bình thường, nhưng vào thời gian cách nay hai ba chục năm là quá chừng rối rắm, phức tạp. Như Hòa hợp trong văn chương, văn hóa.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ   

    Nhận thư Tòa soạn “Sông Hương” nhắc viết bài cho số kỷ niệm 35 năm Tạp chí Sông Hương ra số đầu tiên, lời đáp là một “tự vấn”: Không biết viết cái chi đây?