JENNIFER WALKUP
Tôi sẽ không nói với ai về việc chẩn đoán.
Không hé răng với mẹ hay em gái tôi. Chắc chắn không phải Jake và có lẽ với Steve cũng không hề.
Ảnh: internet
Tôi sẽ mang mặt nạ như nhiều năm, ngay cả khi bên trong cơ thể tôi đang mục nát thối rữa như một quả cam đã nhũn ruột, hư sâu dẫu bên ngoài còn lớp vỏ da che lấp. Đối với thế giới, sẽ không có vết bầm dập, không mảng lốm đốm chảy nhão.
Không chút trầm cảm hay bạc nhược yếu lòng.
Tôi rửa chén dĩa, xả nước nóng xào xào trong khi chờ máy sấy kêu vo vo. Mưa nhỏ giọt trên khung cửa sổ, những giọt to xô đẩy giành nhau rơi trước.
Chiếc khăn lau họa tiết cổ điển của tôi đã cũ mòn, nó mỏng lắm rồi gần như không còn tác dụng thấm hút nữa. Tôi vùi tay vào khăn, nhét nếp vải vào giữa các ngón tay cho đến khi chúng khô hoàn toàn. Tôi chà xát ngón tay cho đến khi cảm thấy thô rát.
Mọi người sắp đến. Bàn đã bày biện xong.
Khuấy nước sốt. Khuấy, khuấy. Công thức bữa tối thứ Bảy của tôi. Mỗi tuần. Khuấy, khuấy.
Tôi thậm chí còn không biết phòng khám của bác sĩ Morris có những cuộc gọi kiểu này vào các ngày thứ Bảy cơ đấy. Tôi nghĩ họ làm việc từ thứ Hai đến thứ Sáu… Vậy mà chính bà bác sĩ gọi…?
Quái.
Bẻ một quả từ nải chuối chín vàng trên bệ bếp, tôi ngồi xuống chiếc ghế đẩu cao, loại chúng tôi đặt trong gian bếp để tạo sự duyên dáng. Một cách đều đặn máy móc như kim đồng hồ, tôi kéo cuốn sổ nhỏ mà nhiều năm nay tôi đã ghi lại từng miếng ăn đưa vào miệng. Chất béo, calo, đạm, thức ăn giàu carbonhydrat. Từng miếng ăn đều được đánh dấu, ghi tên… tích tích tích, tích tắc. Bổ sung, loại trừ, thêm bớt, xem chừng size quần jean lên-xuống, lên- xuống. Một quả chuối cỡ vừa. Cây bút của tôi đang lướt trên mặt giấy bỗng dừng lại, lượn lờ lơ lửng hệt chiếc trực thăng trên đại dương đang tìm kiếm những người sống sót.
Một âm thanh bật phát ra từ trong tôi như một tiếng cười bùng ra rồi tắc nghẹn. Tôi trượt khỏi ghế, chân đụng vào thùng thép không gỉ. Cuốn sổ rơi xuống nền.
Tôi lặng lẽ ăn chuối.
Trong khi đang ngồi đó, tôi gọi cho thẩm mỹ viện.
“Tôi có thể sắp xếp một cuộc hẹn? Cắt, tô, làm nổi. Móng tay chân. Mặt nữa. Aileen Thompson đây.”
“Ơ. Ừm, được.” Karen, nhân viên lễ tân làm việc tại Bonnie’s nhiều năm nay, rất bối rối. Tôi đoán cô nàng nhận ra việc tôi đang tiết kiệm một xu.
Tẩy sơ lớp da chết là ngon rồi. Ngày mưa của tôi đã đến.
Khi chúng tôi cúp máy, tôi chậm bước lên lầu - rón rén như một tên trộm. Tôi chuẩn bị một bồn nước đầy bọt, nồng mùi tử đinh hương, ngâm mình cho đến khi ngón tay ngón chân tái nhợt nhăn nheo hơn lúc bình thường. Chỉ khi nước trở nên lạnh giá tôi mới ra khỏi bồn.
Tôi khoác chiếc áo choàng vải bông màu nắng với những nếp gấp sang trọng mà Jake tặng cho tôi vài năm trước vào dịp Mother’s Day rồi chậm rãi chải tóc mình, một lần, hai lần… cả trăm lần, có lẽ vậy. Tôi làm khô tóc từ từ, sử dụng bàn chải tròn và đặt máy sấy tóc ở chế độ thấp, sau đó rẽ tóc thành từng múi, chải mượt và thả lọn. Tiếp theo tôi dùng nhíp sửa hàng lông mày.
Không suy nghĩ. Chỉ cần nhổ. Nhổ, nhổ, một sợi nữa biến mất. Nhổ, nhổ. Tất cả gọn gàng đâu ra đó.
Kem dưỡng ẩm. Lớp phấn lót. Son. Kẻ, đánh bóng, tô, vẽ, trang điểm mắt, làm cong mi. Chuốt mi, bôi mi. Thêm mascara. Nháy, nháy. Đừng nghĩ. Nháy.
Thở. Thở thực sự, nhịp thở rất thật, bây giờ. Hơi thở sâu. Không khí vào buồng phổi rồi lại ra ngoài.
Sống. Còn sống. Đang tồn tại. Đừng nghĩ bất kỳ điều gì khác. Mình đang sống hôm nay.
Và mọi người sẽ sớm có mặt ở đây. Bạn sống cho những bữa tối thứ Bảy như thế này.
Bạn sống.
Quần thụng xám và áo len dài tay màu tươi, đỏ, đỏ, đỏ! Máu đỏ. Hoa hồng đỏ. Sống sót. Cuộc sống.
Khi tôi đi như trượt xuống cầu thang trong đôi tất len, cái máy sấy cuối cùng cũng kêu ro ro. Tôi vội bước. Tôi ghét nếp nhăn. Đồ đã giặt xong, trắng bong, như muốn mời gọi ấp ôm - như chính tôi thèm khát trao cho tất cả những người thân quen vòng tay tràn đầy ấm áp và mềm như nhung. Nồng ấm như giọng bác sĩ Morris khi cố tìm lời an ủi thay cho những từ ngữ lạnh lùng tang tóc.
Từ ngữ lạnh giá, rùng mình, đông cứng. Từ ngữ chết.
Việc vặt mà tôi thường chán ghét giờ thấy không còn tệ nữa, mùi quần áo sạch sẽ thơm tho quen thuộc như hòa cùng ánh nắng tinh khiết ướp hương khuôn mặt tôi. Tôi lướt tay trên chiếc áo trong vải bông trong khi xếp đồ. Dưới đầu ngón tay tôi, những chồng mềm mại phồng lên làm thành một loại nhạc cụ, lướt-kêu, lướt-kêu, vuốt nhẹ mượt mà. Gấp, xếp, gấp, xếp chồng.
Đâu ra đó. Mọi thứ ở đúng vị trí của nó.
Những chiếc áo sơ mi của Steve gọn gàng trong ngăn kéo của anh. Anh thực sự cần cho những người có nhu cầu một số đồ mà anh ít dùng đến, hoặc thêm vào đống giẻ lau kính các loại xe của thằng Jake. Tiếng đồng hồ lười nhác điểm tích tắc khi tôi đi qua các căn phòng. Nhàm chán và yên tĩnh như những mẩu bánh vụn trên chiếc bàn ngoài hiên, không ngừng lay động trong gió.
Hàng tồn kho. Phế liệu. Thức ăn thừa.
Jake đến trước. Lúc gần hai giờ tôi nghe thấy tiếng động cơ xe của thằng con ầm ầm trước khi làm rung chuyển căn nhà, tôi còn cảm nhận rõ hơn từ đôi bàn chân mình. Nó đun xe thẳng vào ga ra và tôi mỉm cười vì nó là con trai của tôi và còn gì tuyệt hơn khi gặp cục cưng của mình? Khối u trong cổ họng của tôi.
Khối u.
“Cha con sẽ không thích con chiếm chỗ của ông ấy đâu.” Tôi gọi to khi Jake đập cửa.
Tiếng cười của Jake lấp đầy căn phòng - thô nhưng man, không giống chút nào tiếng the thé nhức óc vẫn còn vang vọng trong tâm trí tôi từ dạo nào ở sân chơi. Nó kéo tôi vào vòng tay thật nhẹ nhàng, ôm ấp nâng niu như thể tôi là cánh hoa, là giấy lụa, là người đẹp của nó. Tôi ôm lấy mặt nó, hôn nhẹ lên má.
Nhún vai, đôi mắt nó ánh lên vẻ tinh nghịch. “Lẽ ra cha về nhà trước mới phải chứ.”
Nhà. Tôi rất thích vì Jake vẫn nghĩ thế dù nó đã đi xa mấy năm rồi.
Tôi hứ và tiếp tục khuấy, khuấy mãi cái nồi nước sốt không cần khuấy nữa.
Phải làm một chuyện gì đó.
“Học hành sao rồi?” Tôi hỏi, tiến đến bàn để xếp lại khăn ăn. Những câu hỏi vô thưởng vô phạt. Những hành động giản đơn nhàm chán vô bổ.
Jake lục lọi tủ lạnh. Nó lôi ra một xoong thịt hầm đêm qua.
“Trường học là trường học. Tuy nhiên cái luận án đang làm con ê mông.” Nó để xoong vào lò vi sóng và quay lại tủ lạnh.
“Cuộc sống… tiến triển sao rồi?” Không gấp nữa, tôi chỉ đứng đấy và nhìn nó chằm chằm. Tôi nhớ rõ từng đường nét trên lưng con trai tôi. Áo phông và quần jean của nó, mái tóc không đều trên cái cổ rám nắng.
Nó uống hộp nước cam. Tôi thậm chí không nhăn mặt cũng chẳng quan tâm. Tốt. Đẹp.
“Sẽ ổn thôi,” Jake quay sang tôi, đáp. “Ông thầy hướng dẫn con cho rằng đến giờ vẫn ngon ơ, nhưng con còn cả núi việc phải làm.”
“Mẹ chắc rằng điều đó thật tuyệt vời.”
Nó đảo mắt. Tôi rành ánh nhìn đó: mẹ biết gì về cuộc sống và đam mê của con chứ, và như thế nào mới là cuộc sống thực sự. Lò vi sóng kêu khi nó lấy một cái nĩa.
“Con đã nói chuyện với Tess chưa?”
Jake lại khựng tại lò vi sóng vẻ lạnh lùng, quay lưng về phía tôi. “Dạ. Đêm qua.”
“Rồi…?”
Nó lấy thức ăn và thả mình xuống ghế. Khi nó nhìn lên thì không còn kiểu mẹ biết gì… nữa mà thay bằng ánh mắt tôi biết rõ - ngây thơ thủa nào. Đó, hôn nó và mặt nó tươi ngay. Nó nhún vai rồi ngấu nghiến món cơm, gà. Nước xốt kem.
“Cô ấy không biết mình muốn gì.” Nó liếm nước xốt dính trên ngón út. “Nhưng con đã nói với cô ấy rằng con sẽ không đợi mãi đâu.” Giọng gay gắt. Gượng ép.
Tôi nghĩ đến chiếc nhẫn của bà ngoại Elizabeth mà tôi đã cho nó. Có lần nó ướm lời tặng Tessa. Tôi tự hỏi bao lâu nữa nó mới lại xin mẹ trao nhẫn. Tôi nuốt nước bọt, hình dung về chiếc nhẫn trên ngón tay của cô gái đó.
Cuối cùng thì ai sẽ đeo nó? Tôi sẽ được thấy chứ? Chiếc nhẫn của bà ngoại tôi?
Lễ cưới. Người mẹ và con trai cùng khiêu vũ. Những đứa con. Những kỳ nghỉ.
Con trai tôi sẽ hạnh phúc chứ? Cuộc sống của nó sẽ tươi đẹp?
“Ờ, vậy là tốt rồi. Hãy tự chăm sóc bản thân trước tiên. Trên hết mọi chuyện khác.”
“Dạ.” Nó không cười, đôi mắt nheo lại, kiểu tôi biết những giọt nước mắt đang chực chờ. Tôi nhói lòng. Mùa xuân của tôi bỗng xỉn vàng sương giá.
Cuộc sống. Ngắn hơn.
“Chỉ cần an bình hạnh phúc thôi,” tôi nói. “Cuộc sống, tình yêu, bất cứ điều gì. Hạnh phúc và an bình.”
Như chiếc mô tô của nó? Như mối quan hệ tệ hại của nó với Tess? Hay an lành và bình yên như những lần hẹn khám bác sĩ và các dấu hiệu cảnh báo mà bạn không nên lờ đi.
Jake chớp mắt, chiếc nĩa của nó lơ lửng trong không trung như thể đang được nâng bởi một cái cần cẩu đồ chơi. “Mẹ không sao chứ? Trông mẹ tái nhợt.” Sự lo lắng ánh trong đôi mắt nó rồi lan sang cả cái cau mày mang nét buồn bã tư lự.
“Mẹ ổn mà.” Tôi lại hứ, với tay lấy một chiếc khăn ăn khác.
“Thực ra là không. Mẹ đầm đìa mồ hôi kìa. Con chắc đó. Mà ở đây lạnh ngắt.”
Một giọng cười hoang mang. “Mẹ ổn mà, Jacob.”
“Cha con các người nên lên kế hoạch cho một kỳ nghỉ là vừa.”
Lại hoang mang giọng cười.
“Hawaii hay gì gì đó. Nơi nào mà cha có thể chơi golf còn con thì kiếm được chút ánh nắng mặt trời. Nhâm nhi cocktail pha chanh.”
Golf và cocktail.
May quá, chuông cửa kêu vang.
“Để đó cho mẹ.” Tôi vọt lẹ.
Mẹ và Janie đang tranh cãi trước hiên suýt làm nước mắt tôi trào ra. Janie, hai tay ôm quá trời đồ, bắt đầu đẩy mọi thứ cho tôi - những túm bánh, bí xanh, cà tím…
“Nhìn này,” nó nói, tay lắc lư chiếc túi nhỏ. “Zilbert sắp đóng cửa mà mua rẻ một nửa đó.”
Trong chiếc túi nó đang đong đưa có một lô một lốc hộp nâu nhỏ bóng đẹp căng phồng lớp ni-lon.
“Nửa giá, hở? Hời đó.”
Nó cười toe toét. “Hàng độc giá rẻ tốt hơn loại thường. Phép màu.”
Phép màu.
Tôi lấy chiếc túi từ tay nó, những tuýp kem chống lão hóa yêu thích của chúng tôi lăn qua lăn lại như những kẻ tìm kiếm cảm giác mạnh trên con tàu dài - kiểu tàu cướp biển để tổ chức lễ hội. Nguy hiểm!
Chống lão hóa.
“Ở đây nghe mùi…”. Mẹ nói, đẩy cặp kính lên mũi. Bà dùng khuỷu tay thúc tôi sang bên. “Cháy phải không? Có mùi khét.”
Thở dài, tôi lắc đầu. “Cháy?”
Janie nhăn mũi cười khúc khích y chang hồi nhỏ. Tiếng cười đáng yêu, hầu như không phát ra âm thanh nên nghe hơi giả. Nhưng vẫn mãi là vậy, em gái tôi, nhỏ hơn tôi hai tuổi. Hai năm luôn có nghĩa là một cái gì đó trưởng thành, lớn lên, già hơn, tuy nhiên, ở tuổi 45 và 47, bây giờ thực ra chúng tôi giống hệt nhau.
“Thôi nào,” tôi nói, gỡ những chiếc túi tote ra khỏi tay nó. “Chắc nãy giờ mẹ loay hoay trong bếp.”
Thật tình thì mẹ tôi không có bất cứ điều gì rắc rối. Bà đang tráng rửa dĩa tô, cái xoong không của thằng Jake và một cái chảo rán còn dính dầu mỡ thịt viên và mấy con dao phết bơ. Bà luôn tìm việc để làm. Jake đang ngồi phía xa, cau mày trước một ô chữ.
“Steve đâu?” Mẹ hít hít như thể bà là chó săn còn chồng tôi là con mồi.
“Chơi golf, bà,” Jake hét to khiến Janie và tôi cười tức ruột.
“Chơi golf? Chơi golf! Chà...”. Bà lắc lắc đầu. Jake mỉm cười, nháy mắt với tôi và Janie. “Thôi mà bà, đó là sở thích của cha. Cha làm việc cực nhọc cả tuần. Cha xứng đáng hưởng chút thời gian để chơi chứ.”
Miếng xốp kêu ken két trên trên thớt. Bên cạnh tôi, Janie lại bấm bụng cười, vai nó rung rung khi cố gắng kìm lại. Tôi cũng vậy, tiếng cười sắp bùng ra, như những chiếc bong bóng căng phồng, cuộn xoáy - những dấu hiệu đầu tiên của một cơn bão.
Trong bồn rửa, mẹ cọ kin kít con dao vào đầu cái muỗng sứ. “Làm việc cực nhọc! Hừm. Đàn ông có nghĩa vụ phải chăm làm. Vào thời mẹ, tất cả đều làm việc chăm chỉ nhọc nhằn, và mẹ sẽ nói với các con điều này, cha của các con, ừ, cha của các con…”.
“Không bao giờ, chưa hề cần một ngày nghỉ,” tôi, Janie và Jake đồng thanh.
Mẹ quay ngoắt lại, chỉ cái muỗng gỗ vào chúng tôi, vài giọt nước thẫm nhỏ xuống nền đá phiến. Màu sắc ửng hồng trên má cùng nụ cười phẫn nộ trên môi. “Tại sao, các người…”. Bà vẫy chiếc thìa như một thứ vũ khí, nhưng bật cười vẻ thất bại và tắt vòi nước.
Jake, lúc này đang đứng ngay sau, choàng tay qua vai bà. “Xin lỗi bà. Không thể nhịn được ạ. Chọc bà giận dễ thật.”
“Và vui nữa,” Janie thêm. “Rượu?” Cô đang mở một chai vang trắng. Tôi không bao giờ uống rượu.
“Nhất định rồi.” Giọng tôi nhẹ như cơ thể đang chứa đầy khí heli, như tôi đang bềnh bồng trên mây.
“Tuyệt.” Em gái tôi mặt ánh vẻ tinh nghịch. “Còn mẹ sao nào? Tối nay say bữa với hai con gái cưng của mẹ chứ?”
Mẹ lắc đầu. “Say, Jane Louise? Say rượu? Con gái thì không…”.
“Mẹ!” Janie và tôi cười, hét tướng lên. Jake đứng cạnh dì, đang tự rót cho mình một ly.
“Chà, chuyện quái gì vậy?” Mẹ nói, cụng vào cánh tay của Jake và gật đầu nhìn cái chai trên tay nó. “Rót cho bà một ít, Jacob. Rót đi, ít thôi.”
Tôi thấy Janie tròn mắt và tôi biết mình cũng vậy. Mẹ uống rượu? Tôi nói to. Và bây giờ chúng tôi mới thực sự cười, bật cười, cười vang. Mặt của Janie nhăn cả lại và tiếng cười tuôn ra từ nó như một cái thùng phuy bị lật. Tôi cũng đang ứ tràn, bùng phát tràn lan đến mức muốn cuốn trôi, rửa sạch mọi thứ. Các khối u, u ác tính, giai đoạn bốn.
“Sao không?” Mẹ nói, nâng ly. “Chỉ sống một lần, phải chứ?”
Chỉ sống một lần.
“Ôi, thế này kia!” Giọng Steve oang oang trong phòng khách rồi lập tức anh xuất hiện ở đó, chồng tôi, người bạn thân nhất của tôi, tình yêu bạc của tôi. “Tất cả là gì đây?”
Steve liếc sơ quanh phòng, tôi chắc chắn một người sành sỏi như anh luôn biết phải làm gì trong mọi tình huống, lướt nhanh tới kệ bếp và với chút nỗ lực mở nút chai vang khác và rót cho mình một ly. Janie và tôi vẫn dựa vào bệ, và năm người chúng tôi xếp thành một vòng tròn. Chúng tôi kết thành một đám.
“Tôi đã bỏ lỡ điều gì rồi?” Steve hỏi bằng giọng mà tôi đã quá quen thuộc. Tốt hơn hoặc tệ hơn. Bệnh tật và sức khỏe. Cho đến khi cái chết làm chúng ta chia lìa.
“Chúng ta đang nâng ly chúc mừng chuyện gì?” Mặt Steve ửng đỏ sau trận golf. Anh quàng tay quanh người Jake, kéo thằng nhỏ vào người, ghì mạnh - bỗ bã, thô bạo, đàn ông với đàn ông.
“À, mẹ biết uống rượu, là một.” Đôi má đầy tàn nhang của Janey ướt đẫm nước mắt vì cười và mắt cô em gái tôi nhìn thẳng vào mắt tôi. Tỏa sáng, chớp nháy, truyền tải, chạm vào.
Thấu hiểu.
Tôi lau má, ngắm nhìn những khuôn mặt xung quanh mình.
“Cho chính bây giờ,” tôi nói. “Khoảnh khắc này.”
Hồ Nghĩa dịch từ nguyên bản The Last Supper
(TCSH391/09-2021)
............
* Tình yêu bạc: 25 năm kết hôn và chung sống.
AZIt NêxinNgày xưa, nhà vua ở một nước nọ có một kho bạc. Nghe đồn rằng trong kho bạc của nhà vua cất giữ một báu vật vô giá duy nhất của nước đó. Mọi người đều tự hào về báu vật mà tổ tiên đã để lại cho họ. “Mặc dầu chúng ta chẳng có gì cả, nhưng tổ tiên đã để cho chúng ta giữ một vật quý”, họ thường tự hào như vậy mà quên đi cảnh túng thiếu của mình.
AZIT NÊXIN (1915 - 1995)Một con chó chạy xồng xộc vào tòa báo "Tin tức đô thành”.
Nhà văn Mỹ Carson Mc Cullers sinh 1917. Các tác phẩm chính của bà là: Trái tim là kẻ đi săn cô độc (1940), Thành viên của đám cưới (1946), Khúc ballad của quán cà phê buồn (1951), Ngọt như dưa chua và sạch như heo (1954)…
Kamala Das tên thật là Kamala Suraiyya, sinh ngày 31.3.1934 tại Punnayurkulam, quận Thrissur, thành phố Kerala, vùng tây nam Ấn Độ. Bà là nhà văn nữ nổi tiếng của Ấn Độ. Bà sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Malayalam. Bà sáng tác thơ và tiểu thuyết ngắn bằng tiếng Anh. Bà chủ yếu nổi tiếng trong thể loại truyện ngắn. Trong sự nghiệp sáng tác, bà đã có nhiều giải thưởng văn học, trong số đó là: Asian Poetry Prize, Kent Award for English Writing from Asian Countries, Asan World Prize, Ezhuthachan Award và một số giải thưởng khác nữa. Ngày 31 tháng Năm, 2009, bà mất tại bệnh viện thành phố Pune, Ấn Độ, thọ 75 tuổi.
HERTA MULLERHerta Mueller vừa được trao giải Nobel văn học 2009 vì đã mô tả cảnh tượng mất quyền sở hữu bằng một lối thơ cô đọng và một lối văn thẳng thắn. Truyện ngắn này rút từ tập truyện Nadirs (1982) là tác phẩm đầu tay của bà.
SHERMAN ALEXIENgay sau khi mất việc ở văn phòng giao dịch của người Anh điêng, Victor mới biết cha anh đã qua đời vì một cơn đau tim ở Phoenix, Arizoan. Đã mấy năm nay Victor không gặp cha, anh chỉ nói chuyện với ông qua điện thoại một hay hai lần gì đó, nhưng đó là một căn bệnh di truyền, có thực và xảy ra đột ngột như xương bị gãy vậy.
KOMATSU SAKYOKomatsu Sakyo sinh tại Osaka (Nhật Bản) (28/1/1931). Nhà văn chuyên viết truyện khoa học giả tưởng nổi tiếng của Nhật Bản. Tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kyoto, chuyên ngành Văn học Italia. Từ năm 1957 là phóng viên đài phát thanh Osaka và viết cho một số báo. Năm 1961 chiến thắng trong cuộc thi truyện ngắn giả tưởng xuất sắc do tạp chí “SF Magasines” tổ chức. Tác phẩm của Komatsu đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Có bốn tiểu thuyết đã được dựng thành phim.
FRANK R- STOCKTONCách đây năm năm, một sự kiện kì lạ đã xảy đến với tôi. Cái biến cố này làm thay đổi cả cuộc đời tôi, cho nên tôi quyết định viết lại nó. mong rằng nó sẽ là bài học bổ ích cho những người lâm vào tình cảnh giống tôi.
MIKHAIN SÔLÔKHỐP Truyện ngắn Mùa xuân thanh bình đầu tiên đã về lại trên sông Đông sau những năm tháng chiến tranh. Vào cuối tháng Ba, những cơn gió ấm áp cũng đã thổi đến, và chỉ sau hai ngày tuyết cũng đã bắt đầu tan trên đôi bờ sông Đông. Khắp mọi ngả đường việc đi lại cũng vô cùng khó khăn.
KAHLIL GIBRANNguồn: A Treasury of Kahlil Gibran (Một kho tàng của Kahlil Gibran), Anthony Rizcallah Ferrris dịch từ tiếng Arập, Martin L. Wolf biên tập, Nxb Citadel Press, New York, HK, 1951.
ROBERT ZACKS (ANH)Nhân ngày quốc tế phụ nữ, tôi và anh tôi bàn nhau mua quà tặng mẹ. Đây là lần đầu tiên trong đời chúng tôi thực hiện điều này.
GUY DE MAUPASSANTÔng Marrande, người nổi tiếng và lỗi lạc nhất trong các bác sĩ tâm thần, đã mời ba đồng nghiệp cùng bốn nhà bác học nghiên cứu khoa học tự nhiên đến thăm và chứng kiến, trong vòng một giờ đồng hồ, một trong những bệnh nhân tại nhà điều trị do ông lãnh đạo.
GUY DE MAUPASSANTGia đình Creightons rất tự hào về cậu con trai của họ, Frank. Khi Frank học đại học xa nhà, họ rất nhớ anh ấy. Nhưng rồi anh ấy gửi thư về, và rồi cuối tuần họ lại được gặp nhau.
JAMAICA KINCAIDNhà văn hậu hiện đại Anh J. Kincaid sinh năm 1949. Mười sáu tuổi, bà đến New York làm quản gia và giữ trẻ. Bà tự học là chính. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của bà: “Giữa dòng sông” (1984) nhận được giải thưởng của viện hàn lâm Văn chương và Nghệ thuật Mỹ; còn các tiểu thuyết “Annie” (1985), “Lucky” (1990) được đánh giá cao.
SAM GREENLEE (MỸ)Sam Greenlee sinh tại Chicago, nổi tiếng với thể loại tiểu thuyết.Ông cũng đóng góp nhiều truyện ngắn, bài báo trong “Thế giới da màu” (Black World); và xem như là bộ phận không thể tách rời trong văn nghiệp, bởi ông là nhà văn da màu. Tuy nhiều truyện ngắn của ông vẫn được thể hiện theo lối truyền thống, nghĩa là vào cửa nào ra cửa ấy; nhưng cái cách mở rộng câu chuyện ở giữa truyện, bằng lối kể gần gũi nhiều kinh nghiệm; đã gây được sự thú vị. Đọc “Sonny không buồn” qua bản dịch, dĩ nhiên, khó thấy được cái hay trong lối kể, bởi nếp nghĩ và văn hoá rất khác nhau; nhiều từ-câu-đoạn không tìm được sự tương đương trong tiếng Việt. Cho nên đọc truyện này, chỉ có thể dừng lại ở mức, cùng theo dõi những diễn tiến bên ngoài cũng như sự tưởng tượng bên trong của Sonny về môn bóng rổ, cả hai như một và được kể cùng một lúc.
DƯƠNG UÝ NHIÊN (Trung Quốc)Tôi không thể thay đổi được thói quen gần gũi với cô ấy nên đành trốn chạy ra nước ngoài. Tôi đã gặp được em. Khi đăng tác phẩm “Không thể chia lìa” trên một tạp chí xa tít tắp và dùng bút danh, tôi cho rằng mình không một chút sơ hở. Tôi nhận tiền nhuận bút và mua hai chai rượu quý nồng độ cao trên đường trở về. Tôi muốn nói với em điều gì đó nhân kỷ niệm ngày cưới.
S. MROZEK (Ba Lan)Tại thủ đô của một vương quốc nọ có một viện bảo tàng, trong đó có khu trưng bày về nền nghệ thuật phương Đông. Trong vô số các hiện vật trưng bày tại khu này có nhiều báu vật cực hiếm, giá trị văn hoá và giá trị bằng tiền của chúng vô cùng lớn. Trong số các vật hiếm này có một báu vật đầu bảng, bởi đó là bản duy nhất thuộc loại đó và cũng là bản duy nhất trên toàn cầu. Vì là hiện vật cực hiếm nên giá trị văn hoá của nó là độc nhất vô nhị, còn giá trị bằng tiền thời không tính xuể.
WILLIAM SAROYAN (Mỹ)Cả thế giới muốn tôi làm một chầu hớt tóc. Cái đầu tôi thì quá bự cho thế giới. Quá nhiều tóc đen, thế giới nói thế. Mọi người đều nói, khi nào thì mày định đi làm một chầu hớt tóc vậy hả nhóc kia?
SOMERSET MAUGHAM (ANH)Trang trại nằm giữa thung lũng, giữa những mỏm đồi ở Sômôsetsi. Ngôi nhà xây bằng đá theo mốt cũ được bao bọc bởi những kho củi, sân nhốt súc vật và những công trình bằng gỗ khác. Thời điểm xây dựng được chạm trổ trên cổng bằng những chữ số cổ đẹp đẽ: 1673.
SORBON (Tajikistan)Sorbon sinh năm 1940 tại làng Amondar trong một gia đình nông dân thuộc tập đoàn sản xuất nông nghiệp. Năm 1963 ông tốt nghiệp Đại học Lenin của Tajikistan với bằng tiến sĩ ngôn ngữ học. Các tác phẩm của Sorbon xuất hiện lần đầu vào năm 1965. Tuyển tập truyện ngắn đầu tiên của ông “Không phải tất cả đã được nói ra” xuất bản năm 1969. Nhiều truyện ngắn của ông mau chóng được thu thập lại, trong đó có truyện “Ngày đầu tiên đến trường” nói về một phụ nữ Tajikistan trong Thế chiến thứ Hai, “Sự phòng thủ của đá” và “Người du mục” nói về sự thiết lập chính quyền Xô Viết tại ngôi làng ven sông Zeravshan, và “Áo khoác đồ sộ” nói về một cậu bé bị mất cha trong chiến tranh. Sorbon là nhà văn có tiếng tăm lớn của nền văn xuôi Tajikistan ở thập niên bảy mươi. Truyện ngắn “Người đánh bẫy chim” được viết năm 1974.