Bình dị và hào hoa Quang Dũng

15:54 22/12/2021

PHONG LÊ   

Quang Dũng1 - Dũng mà rất hiền, rất lành; tôi muốn dùng đến cả chữ lành để nói về ông mới thật sự đủ nghĩa và thỏa lòng.

Vì hẳn chắc, cả cuộc đời, cho đến tuổi sáu mươi tám khi ông qua đời, ông chưa hề làm phiền ai, gây chuyện với ai. Ông cũng chưa hưởng được những gì ông xứng đáng được hưởng, không phải theo ý nguyện của ông - vì dường như chưa bao giờ ông thể hiện ý nguyện đó - mà với đóng góp của ông trong tư cách một nhà thơ, người đã có không ít những bài, những câu đẫm chất thơ và chất đời; người thuộc trong số không nhiều nhà thơ đã nói được một điều gì thật riêng và thật đáng giá cho nền thơ Việt Nam giữa thế kỷ XX của chúng ta.

Quả là sự nổi danh, sự lưu danh có phần xa lạ với Quang Dũng lúc sinh thời. Người có vóc dáng cao và to, dường như đi đâu, đến đâu cũng thường e ngại về sự kềnh càng của mình, để như muốn thu nhỏ lại, để có thể lẫn vào trong bình dị dân dã của đời thường. Cả cuộc đời ông, ngay từ khi là anh chiến binh Tây tiến cho đến khi là ông cán bộ biên tập Nhà xuất bản Văn học nghỉ hưu, ông đều ở lẫn cùng nhân dân. Ông sống, theo đúng cả nghĩa đen của nó, không phải với cao lương mỹ vị mà với mắm muối tương cà, lều tranh quán lá, kể cả sự chịu đựng cái đói mà không phải nhiều người trong chúng ta đã trải:

Dặn vợ có cà đừng gắp mắm
Bảo con bớt gạo thổi thêm khoai
Nếu ai có bảo rằng hà tiện
Ta chẳng phiền ai, chẳng lụy ai!


Ông là người đi nhiều, theo cái thú phiêu bồng; nhưng tất cả đều là các cuộc đi với mũ lá, chân dép, ba lô trên các nhà ga, bến xe, bãi chợ của các xứ quê. Ông không thể và có lẽ chưa một lần đi theo lối tiền hô hậu ủng, lên xe xuống ngựa!

Đối với ông, sự nổi danh quả là xa lạ, thậm chí ông còn phải trải nỗi sợ của sự nổi danh. Tây tiến với “áo bào thay chiếu anh về đất, sông Mã gầm lên khúc độc hành”, với “mắt trừng gửi mộng qua biên giới, đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”... hình như đã “làm hại” ông suốt một thời dài, cho đến năm ông nằm liệt trên giường bệnh, trước lúc qua đời. Ngót bốn mươi năm, Tây tiến là đứa con đầu vạm vỡ, khôi ngô của ông, thế nhưng ông đã phải lánh mặt nó, thậm chí phải hãi sợ nó mỗi khi nghe có ai nhắc đến nó. Thương ông biết mấy, vì chỉ đến khi bị bạo bệnh, nằm liệt, ông mới có một tập thơ riêng, Mây đầu ô (1986); có nghĩa là phải đến lúc này, Tây tiến mới được vẹn nguyên trở về với người đã sinh ra nó để nhận lại vị trí của đứa con đầu lòng hào hoa và tráng kiện, không chỉ của ông mà còn là của cả nền thơ kháng chiến, ở vị trí mở đầu, ít có bài nào thay thế được và cũng không ai ghen tị với nó được.

Tây tiến chịu số phận long đong một thời dài, có thể nói là quá dài, như một sản phẩm chính tác giả muốn quên đi. Nhưng phải nói là, cũng suốt bấy nhiêu năm, nó không hề bị quên trong lòng một bộ phận công chúng độc giả. Cái chất hào hoa làm nên dấu ấn một thời, cái hào hoa vốn có sẵn trong tâm trí một lớp người trai trẻ vào cách mạng, cái hào hoa của người Hà Nội và cả của xứ Đoài lại chính là cái làm nên men say và chất lãng mạn mà con người rất cần đến cho những cuộc ra đi, những cuộc lên đường. Tất cả những ai, nhất là thuộc lớp người trai trẻ trong chiến tranh, và càng là trong chiến tranh mà lại không cần đến chất lãng mạn đó, để bù đắp cho những gian nan, thiếu thốn của hiện thực - một chút thôi cũng đủ giúp cho họ vượt lên trên hiện tại, vượt lên chứ không phải để thoát ly hiện tại.

Ai mà không mong mỏi được nhìn thấy trong các cuộc vui, cuộc liên hoan bình thường của đời sống kháng chiến cái chất lãng mạn và mơ mộng lộng lẫy như sơn mài mà dường như chỉ riêng Quang Dũng mới nắm bắt được:

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ
Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa.


Tôi tin tất cả các thế hệ bạn đọc đã từng đọc và yêu Tây tiến, không ai vì cái chất “tiểu tư sản” như một thời ta gán cho nó mà trở nên yếu đuối hoặc hư hỏng. Họ vẫn là họ, những người thuộc lòng Tây tiến, yêu mê Tây tiến, ngân nga cùng Tây tiến, mà vẫn là người lính dũng cảm của hai cuộc kháng chiến, là người công dân tốt của nhà nước Dân chủ cộng hòa, là con người mới xã hội chủ nghĩa như cách ta kêu gọi và mong đợi.

Quang Dũng không phải chỉ là tác giả của một Tây tiến bất hủ. Ông thật sự là nhà thơ với hồn thơ thật sự trong nhiều bài thơ khác: Mắt người Sơn Tây, Những làng đi qua, Không đề, Mây đầu ô... Chưa ai khác ngoài ông, cho đến hôm nay, kể cả Tản Đà, đã tạo nên được một sự sống rung động đến thế cho xứ Đoài nhiều mây trắng của quê ông. Con đường qua Cầu Giấy lên Phùng, đến với xứ Đoài, nhờ vào thơ ông mà trở nên thơ mộng hơn, mỹ lệ hơn, lưu luyến hơn, dẫu đất đai quê hương thì nơi đâu cũng có một vẻ đẹp riêng, một nỗi nhớ nhung riêng, nơi đâu cũng thế:

Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt
Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì
...
Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn
Về núi Sài Sơn ngó lúa vàng,
Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc
Sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng


Ấy là làng quê trong vẻ đẹp và sự sống cần lao muôn thuở. Và còn là làng quê trong chiến tranh, thật là cụ thể, sống động và đầy ấn tượng qua cái nhìn và cảm nhận của người lính Tây tiến:

Những làng trung đoàn ta đi qua
Tiếng quát dân quân đầu vọng gác
Vàng vọt trăng non đêm tháng Chạp
Nùn rơm - khói thuốc - bạch đầu quân

 
Tự vệ xách đèn chai lối xóm
Khuya về chân khỏa vội cầu ao
Nghe tiếng sung rơi miệng chiến hào
Vỡ lá bàng khô bước du kích


Đó là những bài thơ hay trọn vẹn, không phải chỉ để đọc một lần. Ông còn những bài, với không ít những câu đủ làm sống dậy một kỷ niệm với đất nước quê hương. Nếu nói có một nhà thơ gắn bó tha thiết với quê hương tôi tưởng không thể quên Quang Dũng, người đã có tập thơ Rừng biển quê hương (in chung với Trần Lê Văn); người đã viết văn xuôi: Rừng về xuôi Hoa lại vàng tháng Chạp; người không chỉ có rất nhiều duyên nợ với rừng mà còn cả với biển; ngay với biển, ông cũng đã ghi lại được những dáng nét, những dư âm không dễ quên:

Ầm ì biển thở dọc hải triều
Đồng muối lóa mắt ngày nắng thiêu
Ở đây đê biển ngăn con nước
Đê ngoài kia sóng gió bao nhiêu!


Không nói đến những góc phố phường Hà Nội:

Mây ở đầu ô mây lang thang
Ôi! Chật làm sao góc phố phường.


Những nẻo đường quê:

Đường về quê hương mùa lúa chín
Chim ngói bay về thửa tám thơm


Càng không nói những kỷ niệm chiến tranh, sau Tây tiến lại tiếp đến những Hồ Nam, trong khoảng cách của không gian:

Một hàng cau phơ phất
Một hàng mây xa xôi
Trong mưa mờ hiu hắt
Buồn lắm Hồ Nam ơi!


Bố Hạ, trong khoảng cách thời gian:

Cuối năm trên đường đi Bố Hạ
Tháng chạp mùa cam lửa đốm vườn
Bãi sỏi quanh co dòng nước chậm
Cheo leo cầu tạm vắt sông Thương.


Dường như tất cả những nhà thơ hiện đại của chúng ta không ai không viết về quê hương; nhưng quê hương trong thơ Quang Dũng theo tôi vẫn có dáng nét riêng, có cái hồn riêng. Đi những chuyến đi trở nên rất bình thường như một nhu cầu hồn nhiên của sự sống chứ không phải đi để hưởng ứng một cuộc vận động, để kiếm tìm đề tài, để viết... đó là cách đi quen thuộc của Quang Dũng. Đi đến những vùng sâu và xa, ngay khi đã ở tuổi ngoài sáu mươi, khi bệnh tật không ngừng hành hạ, Quang Dũng đã trở thành người bộ hành nơi con số bất tận những bộ hành họp thành nhân dân trong gồng gánh lam lũ và trong buồn vui chung của cuộc đời. Có thế, mới là ông. Và ông chỉ khác họ là tự mình ghi được một cách hồn nhiên, như không hề có chuẩn bị, những thanh âm và dáng nét của cuộc đời, vừa là của một thời sôi nổi hai cuộc kháng chiến, lại cũng vừa là trong vĩnh cửu của sự sống cần lao, với bao là âu lo vất vả nhưng cũng không quá hiếm hoi niềm vui sống.

Khỏi phải nói nhiều về cái nghèo và những vất vả, túng thiếu mà nhà thơ tài hoa Quang Dũng cùng gia đình ông phải nếm trải. Thế nhưng sống cái sống thiếu thốn mà không một lời than phiền chê trách; hoặc nếu có chê trách thì cũng chỉ là tự trách mình - đó cũng là nét riêng của người và thơ Quang Dũng. Hiểu thế để thấy thơ Quang Dũng không vắng thiếu cái buồn, nhưng buồn mà gắng tự vượt lên, buồn mà không phải là bi, là bi quan hoặc bi lụy.

Phải có cả hai phía, trong đối xứng như thế, mới là Quang Dũng:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Nhớ ôi Tây tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi


Những cái buồn làm nên cuộc sống mà thiếu nó, sao còn chút ý vị và thi vị:

Em mãi là hai mươi tuổi
Ta mãi là mùa xanh xưa
Những cây ổi thơm ngày ấy
Và vầng hoa ngâu mưa thu
Tóc anh đã thành mây trắng
Mắt em dáng thời gian qua
...
Bỏ em, anh đi
Đường hai mươi năm
Dài bao chia ly


Phải có buồn mới đúng là hồn thơ Quang Dũng. Chút buồn, sao thoát được, trong lận đận chuyện đời, trong nỗi sợ ngày qua, nhưng buồn không phải để mất đi lòng tin vào cuộc đời, đối với ông, đó là toàn bộ sự sống bình dị mà ấm áp giữa người thân và bè bạn, là tình cảm của biết bao người đọc ông và yêu mến ông, cả trong đời và trong thơ.

Quang Dũng, người thường quên thơ mình, người không muốn tính đến sự nghiệp thơ của mình, người ngay lúc sinh thời vẫn phải nhờ bè bạn “sưu tầm” hộ thơ mình, lại chính là người rất đáng được đời nhớ đến. Sinh thời ông chưa được hưởng bao nhiêu cái thú nhìn thấy trọn vẹn những gì mình sinh ra cho đời, vì sự vô tâm rất đáng yêu và cũng đáng tiếc nơi ông. Vào những ngày này, mở đầu thế kỷ mới, mong biết bao một sưu tập đầy đủ về Quang Dũng - một tài năng đa diện cả thơ - văn - nhạc - họa, để hồi nhớ về một thế kỷ đang qua, trong đó ông là người đã để lại nhiều dấu ấn, hoặc nhờ ông mà có thêm các dấu ấn.

P.L
(TCSH43SDB/12-2021)

------------------------
1. 1921 - 14/10/1988.


 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trước khi đưa in, tôi có được đọc bản thảo tiểu thuyết Phía ấy là chân trời (1), và trong bài viết Đóng góp của văn xuôi Tô Nhuận Vỹ (tạp chí Văn Học số 2.1988) tôi có nói khá kỹ về tiểu thuyết nầy - coi đây là một thành công mới, một bước tiến trên chặng đường sáng tác của nhà văn, cần được khẳng định.