Bản trường ca “Huyệt lửa chôn chung” và “món nợ” không chỉ riêng của nhà văn Phùng Quán

16:22 04/02/2009
TRUNG SƠN(Nhân kỷ niệm 10 năm ngày mất nhà thơ Phùng Quán)I. Hơn mười năm trước - mùa hè 1992, một cuộc “khai quật” ở Huế đã làm chấn động dư luận. Trong lúc đào hố móng xây dựng một căn nhà tại trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế, người ta đã phát hiện một ngôi mộ tập thể gồm 17 bộ hài cốt, một số vũ khí, đạn và 3 kỷ vật còn ghi rõ tên hiệu, đơn vị Vệ quốc đoàn hồi năm 1946.

Trang di cảo của Phùng Quán

Căn cứ vào các hiện vật này và vị trí khu mộ nằm trong vùng xảy ra trận đánh khốc liệt vào nhà hàng Sáp-phăng-giông(1) năm xưa, các cựu chiến binh ở Huế trong một cuộc hội thảo đã khẳng định đó là hài cốt của trung đội “Tiếp phòng quân”(2) hy sinh vào thời kỳ đầu sau Cách mạng Tháng 8, khi nền Độc lập của Tổ quốc ta đang như ngàn cân treo sợi tóc.
Về trận đánh này, trung tướng Trần Quý Hai, trong hồi ký “Những ngày khói lửa” (NXB Thuận Hoá, 1984) đã viết: “... Ta giết được một số, nhưng khi rút đến gần nhà mật thám Xô-nhi thì bị quân địch chặn đánh. Quân ta đánh trả lại kịch liệt. Đến khi hết sạch đạn, ta mới chịu phá hết súng rồi hy sinh...”  Một số nhà báo, căn cứ vào kết luận cuộc “Hội thảo” và tìm gặp nhân chứng, trong các bài viết sau vụ “khai quật” thì cho rằng đồng đội của 17 liệt sĩ đã chôn các anh, nhưng sau đó họ cũng hy sinh luôn nên không còn ai biết chuyện này nữa! Tuy nhiên, nhờ vụ “khai quật”, 3 liệt sĩ - sau gần nửa thế kỷ nằm sâu dưới tầng đất vắng lạnh hương khói đã được “trở về” trong vòng tay người thân; và nhờ đó, một phần chân dung của những chiến sĩ “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh” một thời hào hùng và bi tráng đã được tái hiện. Đó là trung đội trưởng Nguyễn Ngọc Giao (thường gọi là Ngọc), nguyên là chiến sĩ trong đoàn quân Nam tiến, có biệt danh “Người-yêu-nước-khổng-lồ” vì tầm vóc đặc biệt cao lớn của anh; là chính trị viên Vĩnh Tập, chắt nội của vua Hiệp Hoà - người thanh niên hoàng tộc sớm tham gia cách mạng, nổi tiếng đến mức mỗi khi có cuộc họp, ông Nguyễn Chí Thanh và nhà thơ Tố Hữu, hai cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở Huế thời đó, thường đưa mắt nhìn cử toạ tìm hỏi: “Vĩnh Tập ở đâu?”...; là Phùng Huấn, bác họ của nhà văn Phùng Quán, khi mặt trận Huế bùng nổ, anh hoãn ngày cưới, xung phong gia nhập Vệ quốc đoàn... Những điều trên, một số báo đã đăng, nhưng tưởng cũng nên nhắc lại vắn tắt và để bạn đọc dễ theo dõi câu chuyện tiếp theo.

II. Một ngày đầu tháng 7 năm 2003, anh N.H.T. nguyên là một cán bộ lãnh đạo Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế đưa cho tôi bản thảo dày gần ba chục trang của nhà văn Phùng Quán mà anh vừa tìm thấy. Tập bản thảo có tên “Bản hùng ca bị mối xông và 17 bộ hài cốt” với lời ghi “Tặng thế hệ trẻ lớp sau của thế hệ VQĐ”. Ông viết bản thảo này tại căn nhà bên Hồ Tây vào ngày 14 tháng 8 năm Nhâm Thân, trước hết, để “đính chính” một chi tiết mà vài tờ báo đã viết quanh trận đánh khốc liệt năm xưa. “... Tôi chỉ là một người lính già thất học, mù tịt về mọi khoản khoa học,  nhưng tôi cả quyết rằng trung đội vệ quốc đoàn này không phải do đồng đội của họ chôn. Vì một lẽ đơn giản là những người lính chúng tôi ngày đó không bao giờ chôn cất đồng đội của mình cùng với vũ khí. “Súng là vợ, đạn là con” là đạo lý chiến trận của chúng tôi ngày đó. Không ai đem chôn “vợ con” cùng với người lính chết trận. Có một nhà thơ đã từng viết: “Chết còn trao súng đạn cho nhau”. Vậy thì ai chôn?...”

29 trang di cảo của nhà văn Phùng Quán không chỉ nhằm trả lời câu hỏi ấy. Ông đã kể lại trận đánh khá chi tiết và việc ông đã hơn một lần mất ăn mất ngủ với quyết tâm dựng lại sự tích anh hùng ấy bằng tác phẩm văn học.
Khi trận đánh ấy diễn ra, Phùng Quán là đội viên Đội Thiếu niên trinh sát của mặt trận Huế mà sự tích anh hùng của những “Ga-vơ-rốt Việt Nam” này đã được ông miêu tả trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Tuổi thơ dữ dội”; Phùng Quán đã tận mắt chứng kiến trận đánh với mối quan tâm đặc biệt vì liệt sĩ Phùng Huấn vừa được tìm thấy là ông bác của Phùng Quán và trước đó không lâu, chính những người anh hùng sắp hiến trọn thân mình cho Tổ quốc đã cứu Phùng Quán và Bồng-da-rắn thoát chết, khi hai “chú nhóc” muốn tin tức truyền được nhanh, mạo hiểm đi đường tắt trái với lệnh chỉ huy, lọt vào tầm ngắm của súng máy địch, do đó đã làm lộ kế hoạch đánh miễu Đại Càng...

“... Với riêng tôi, trong suốt cuộc đời làm văn của mình, có vài ba đề tài ám ảnh tôi không phút nào nguôi. Nó giống món nợ “bát cơm Phiếu mẫu”(3), không trả được, chết không nhắm mắt... Câu chuyện về trung đội cảm tử quân anh Ngọc, về bác Phùng Huấn tôi... bị giặc thiêu cháy thành tro bụi trong “Huyệt lửa chôn chung”, là một đề tài như vậy đối với đời văn của tôi...”
Chính vì thế mà nhà văn Phùng Quán đã khởi thảo bản hùng ca “Huyệt lửa chôn chung”. Bản hùng ca gồm 10 chương, khoảng nghìn câu thơ với một Khai từ và một Hậu từ. Tác phẩm hoàn thành, nhưng hồi đó chưa ai nhận in cho ông, nên bản thảo bị mối xông. Ông đã kể lại:
“... Nghìn câu thơ nay tôi không còn nhớ nữa (ba mươi năm có lẽ rồi còn gì!), nhưng cốt truyện, đoan Khai từ và lác đác dăm câu thơ khắc hoạ ý tưởng chính, tôi vẫn còn nhớ như in... Đất nước ta đâu chừng ấy nghĩa trang / Đâu chừng ấy nấm mồ liệt sĩ / Hãy đi từ Ải Nam quan / Thẳng đến tận Hàng Dương Côn Đảo / Nhặt lên từng hòn đất nếm xem / Có hòn nào không hăng nồng vị máu? Đó là đoạn Khai từ của thiên hùng ca “Huyệt lửa chôn chung”...”
Có một bài thơ với tiêu đề “Hôn” đã đã đăng trên báo nhiều lần, được ông Hữu Ngọc dịch ra tiếng Pháp (Le Baiser) in trong tuyển tập “Văn học Việt Nam”, chính là một đoạn trích trong thiên hùng ca viết về liệt sĩ Phùng Huấn:
“... Em ơi rất có thể / Anh chết giữa chiến trường / Đôi môi tươi đạn xé / Chưa bao giờ được hôn! /Nhưng dù chết em ơi / Yêu em anh không thể / Hôn em bằng đôi môi / Của một người nô lệ!”

Nghìn câu thơ nay không còn, nên ông chỉ có thể thuật lại vắn tắt những diễn biến chính. Trận “cảm tử” vào nhà hàng Sáp-phăng-giông không kết quả vì lưới lửa phòng thủ của giặc quá dày đặc. Ba giờ sáng, trung đội anh Ngọc vừa rút đến ngôi lầu cạnh nhà tên trùm mật thám Sô-nhi thì bị bọn địch vây chặt, trong khi các đơn vị khác quanh khu vực đã rút hết. Trời hừng sáng, tiếng súng vang lên dồn dập dưới tầng 1 ngôi lầu 2 tầng. Mười giờ sáng, tiếng súng bắt đầu vang dội ở tầng trên ngôi lầu. Như thế, hẳn là bọn địch đã chiếm được tầng dưới, các chiến sĩ ta phải rút lên tầng trên cố thủ. đạn súng máy các cỡ, rồi đạn các loại súng cầu vồng xối xả nhắm vào tầng lầu... Đến ba giờ rưỡi chiều, tiếng súng chống trả vẫn tiếp tục vang lên trong tầng lầu. Như vậy là các anh còn đứng vững. Trung đoàn trưởng Hà Văn Lâu truyền lệnh khắp mặt trận: Các đơn vị sẵn sàng xuất kích lúc mặt trời lặn. Nhưng bọn giặc dã man đã đưa hai xe cứu hoả chở đầy xăng phun như tắm cả ngôi lầu, rồi tiếng loa cực lớn vang lên: “Chúng mày hãy hàng đi! Ném tất cả vũ khí xuống sân!... Không hàng, tất cả sẽ bị thiêu ra tro!...” Thay cho câu trả lời là tiếng súng đồng loạt vang lên từ tầng lầu và sau những tràng đạn lửa của địch bắn vào, ngọn lửa xăng vàng khé bùng lên, ngày một lan rộng, bốc cao phủ kín ngôi nhà. Rồi bất ngờ, cả ngôi lầu phủ lửa bỗng sụm xuống trong tiếng nổ rung chuyển cả mặt trận. Thế là các anh đã cho nổ hai khối mìn mang theo chưa kịp dùng khi tấn công nhà hàng Sáp-phăng-giông, biến vị trí cố thủ thành nấm huyệt chôn chung...

Dù được chứng kiến, đoạn kết cục trận đánh chỉ là tưởng tượng của nhà thơ trong bản hùng ca. Sự thật ra sao, tưởng là vĩnh viễn không có câu trả lời vì ai cũng nghĩ rằng tất cả đã cháy thành tro bụi! Nhà văn Phùng Quán nhớ lại:
“... Hơn ba mươi năm đã trôi qua nhưng tôi vẫn còn nhớ được, đoạn kết thúc cuộc đọ sức bi hùng này tôi miêu tả trọn hai chương, theo thể thơ cổ phong và tất cả đều vần trắc. Đó là 2 chương thơ đã hành hạ tôi đến khốn khổ. Tôi gạch xoá nát các trang giấy, xé bỏ rồi viết lại không biết bao nhiêu lần...Tôi viết trong nỗi phiền muộn cay đắng về sự bất lực của mình. Một đề tài như thế này vào tay một nhà thơ khác, chắc họ đã viết thành một thiên I-li-át... Thế mà vào tay mình, nó biến thành một bản diễn ca tầm thường kể chuyện người thật việc thật... Con gái tôi lên chín, học sinh lớp 3, trong lúc đi kiếm giấy loại để nhóm bếp đã phát hiện thiên hùng ca “Huyệt lửa chôn chung” bị mối xông nát bét... Con gái tôi nhặt lên, reo to: “Bố ơi, mảnh này còn đọc được bố ạ...” Rồi nó đọc to với giọng trong trẻo ngân nga như kiểu đọc bài tập đọc ở lớp 3 của nó: Đất ơi!...Con nguyện yêu Người với tất cả máu xương / Với tất cả cuộc đời con 18 tuổi... Con vui sao khi nghĩ tới gương mặt Người trong tương lai... Rửa sạch hết lửa, máu và bùn... Tươi vui chói lọi... Người sẽ hát cho những thế hệ mai sau nghe về thế giới ĐẠI ĐỒNG CỘNG SẢN... Mà thế hệ chúng tôi hôm nay không tiếc máu để sưả soạn cho lời ca...” Đây là đoạn thơ tôi tả cái chết của Vĩnh Tập - người chính trị viên trung đội, đảng viên Cộng sản độc nhất của đơn vị cảm tử quân...”

Tác giả chưa thoả mãn và bản hùng ca mãi mãi chỉ là ký ức của Phùng Quán, nên “món nợ bát cơm Phiếu Mẫu” vẫn dằn vặt, hành hạ ông hết năm này qua năm khác. Cho đến sau ngày đất nước thống nhất, một lần nữa, ông trở lại với đề tài “năm xưa” bằng thể văn xuôi.
“... Tôi phải vật lộn với nó đến gần kiệt sức. Viết rồi xoá, xoá rồi viết, dàn đi xếp lại, đảo ngược đảo xuôi...Cuối cùng tôi cũng đã hoàn thành được “cuốn sách nợ đời” (tôi gọi nó như vậy), cảm thấy vừa ý vì đã viết hết sức mình. Nhưng rồi tôi bắt đầu hoang mang: Liệu người đọc có tin câu chuyện tôi kể là có thật không?...”
Quả nhiên, khi ông đọc cho một số bạn văn nghe (“phần lớn họ đều ít tuổi hơn tôi... tác phẩm của họ từng gây nên nhiều cuộc tranh luận trên văn đàn...”), có người đã bảo: “Thế hệ các anh đa số không làm văn mà làm công tác tuyên truyền...”; một bạn khác nói cụ thể hơn: “Một cá nhân anh hùng thà chịu chết cháy không hạ vũ khí hàng giặc, điều đó có thể xảy ra. Nhưng cả mấy chục con người cùng quyết định như vậy là bịa đặt”. Sau những lời bình phẩm ấy, nhà văn đau đớn thú nhận:

“... Tôi viết với niềm tin không gì lay chuyển nổi, tôi không hề minh hoạ, tôi kể lại sự thật. Có những sự thật quá lớn lao của một thời, đến nỗi hậu thế nhìn qua lớp sương mù của thời gian, không thể nào tin nổi! Thật ra, một nhà văn có tài việc có thể thuyết phục được người đọc tin những điều  họ viết, ngay cả khi không có bằng chứng trong tay. Tôi vừa bất tài lại vừa không có bằng chứng, các bạn không tin tôi là phải lắm...”
Trong một phút giận thân và với lòng tự trọng của một nhà văn có lương tâm, ông đã không để cuốn sách “bán thành phẩm” ấy ra đời. Và “món nợ bát cơm Phiếu mẫu” vẫn chưa trả được. “... Thi thoảng bất chợt nhớ đến, tôi vẫn thấy cổ họng mình đắng nghét nỗi niềm...”

III. Thế rồi 17 bộ hài cốt được phát hiện. Đọc các bài báo tường thuật sự việc, nhà văn Phùng Quán thốt lên: “... Bây giờ thì tôi không những chỉ có một nắm tro mà có những 17 bộ hài cốt để chứng minh câu chuyện tôi kể là có thật; một tập thể anh hùng hào kiệt thà bị thiêu cháy, quyết không hàng giặc là có thật; người chiến sĩ cộng sản từ bỏ giai cấp mình (Vĩnh Tập), xả thân vì lý tưởng thế giới Đại đồng cộng sản là có thật!...”
Chỉ tiếc là nhà văn Phùng Quán cho đến lúc qua đời vẫn chưa trả được “món nợ bát cơm Phiếu mẫu”. Thế mới biết từ một sự thật anh hùng đến một tác phẩm văn học thể hiện sự thật anh hùng có sức lay động lòng người nhiều khi là cả một thử thách không vượt qua nổi. Vậy nên những người cầm bút mãi vẫn còn mắc nợ trước sự hy sinh lớn lao của nhân dân mình trong 2 cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc. Mà suy cho cùng, món nợ ấy không chỉ của nhà văn Phùng Quán và các bạn đồng nghiệp của ông. Mỗi chúng ta, bằng việc làm hàng ngày, bằng cuộc chiến đấu chống lại “tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân” như lời Hồ Chủ tịch đã nói từ nửa thế kỷ trước, bảo vệ những giá trị văn hoá đạo đức mà cả dân tộc ta đã hun đúc, gìn giữ với biết bao xương máu, hẳn là cách trả “món nợ” ấy một cách hiệu quả nhất, xứng đáng nhất.
      N.K.P
     (Dựa theo Di cảo đã dẫn của nhà văn Phùng Quán)
(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 



------------------------
(1) Nay là khu nhà đối diện với Đài Truyền hình Huế, ở góc đường Hà Nội-Lý Thường Kiệt.
(2) Đơn vị đặc nhiệm, chỉ tuyển chọn những chiến sĩ có trình độ khả năng giao tiếp đối với Pháp trong giai đoạn sau Hiệp định Sơ bộ 6-3.
(3) Thời nhà Hán, thuở hàn vi, Hàn Tín được bà Phiếu Mẫu cho một bát cơm; sau này khi trở thành tể t
ưng, ông đã mang đến nghìn lượng vàng để tạ ơn.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔ HOÀNGBạn chắc không thể không biết đến đến hai tên tuổi này: Brigitte Bardot và Francoise Sagan. Vẫn mãi còn đó những hình tượng khó quên mà Brigitte Bardot dành cho màn ảnh, những trang sách khó quên mà Francoise Sagan dành cho văn học. Hai người sinh ra cùng thời, nhưng với tháng Chín năm 2004 này nếu chúng ta chúc mừng Brigitte tròn 70 tuổi, thì lại đau đớn, nuối tiếc vĩnh biệt Francoise Sagan ra đi ở tuổi 69...

  • Cuộc đời và sự nghiệp của Văn Cao luôn là những bí ẩn đối với hậu thế. Ai sẽ là người dựng lên được một Văn Cao - một trong những tượng đài của dân tộc Việt Nam thế kỷ 20, nhưng cũng là một con người của cuộc đời thực với những vui buồn, đớn đau, hạnh phúc...?

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLần này, tác giả bộ trường thiên tiểu thuyết viết về thời Tây Sơn - Nguyễn Huệ "Sông Côn mùa lũ" (SCML) trở lại thăm nơi vua Quang Trung lên ngôi khi Huế vừa sang thu. Nước sông Hương do những trận mưa đầu mùa trên đại ngàn cuốn đất bùn con đường lớn Trường Sơn vừa xẻ rộng tràn về, không còn trong xanh như dịp ông về thăm Huế mùa hè hai năm trước, nhưng Cố đô qua hai kỳ Festival, nhiều khu phố được tôn tạo, khang trang hơn nhiều. (*)

  • VĂN THAOTháng 10-1944, nhạc sĩ Văn Cao đã sáng tác bài hát Tiến quân ca trên một căn gác nhỏ tại số nhà 45 phố Nguyễn Thượng Hiền. Căn gác này cũng là nơi Văn Cao đã sống và hoạt động cách mạng từ năm 1944 đến ngày toàn quốc kháng chiến 22-12-1946. Đội danh dự Việt Minh do Văn Cao phụ trách cũng từ đây toả đi làm nhiệm vụ. Nhiều cán bộ cao cấp của Đảng như các đồng chí Vũ Quý, Lê Quang Đạo, Lê Trọng Nghĩa, Nguyễn Thành Lê... cũng đã thường xuyên dùng địa điểm này để hoạt động trong những năm đầu cách mạng. Nhiều tác phẩm nổi tiếng của Văn Cao như: Bài thơ Chiếc xe gác qua phường Dạ Lạc; các ca khúc Chiến sĩ Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Hải quân Việt Nam đã ra đời tại đây.

  • VĨNH NGUYÊNHội VHNT Thừa Thiên Huế chủ trương đưa văn nghệ sĩ về bám sát thực tế địa phương, vùng sâu vùng xa, nên những năm gần đây đã liên tục mở trại sáng tác ở các huyện trong tỉnh. Các năm trước là Quảng Điền, Phú Vang, Hương Thuỷ và năm 2004 này là Phú Lộc.

  • PHAN THÀNH TRUNGMột ngày đẹp trời. Lễ mừng thọ cụ Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi được tổ chức vui vẻ, trân trọng tại Chòi ngắm sóng Hồ Tây, đúng vào ngày kỷ niệm Nhà giáo Việt Nam 20 tháng 11 năm 1992. Với danh nghĩa là em kết nghĩa của cụ Đang, Phùng Cung và Phùng Quán đã đứng ra tổ chức lễ thọ này. Hai nhà thơ vốn quen tính vui đùa dí dỏm đã gọi hóm là “Mừng sống dai”...

  • “Cụ Hồ Chí Minh được nhân dân rất quý mến. Tên cụ có nghĩa là “sáng suốt”. Cụ là một nhà chính trị xuất chúng, một nhà chiến lược Cách mạng, một người yêu nước nồng nàn. Cụ đã nêu gương chính nghĩa và đạo đức cho thế hệ thanh niên noi theo” (Nhà báo Mỹ - Starôbin)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNếu không có nghị lực hơn người, nhà giáo ưu tú - nhà nghiên cứu Văn Tâm đã bước sang thế giới khác từ 7- 8 năm trước rồi, sau cơn tai biến mạch máu não “thập tử nhất sinh”. Nhờ kiên trì tập luyện và đủ thứ thuốc men, từ bên “cửa tử”, dần dần anh đã “phục sinh” và với cây gậy ngắn để có thể tự đi lại trong nhà khi cần lục tìm tư liệu, cây bút nghiên cứu phê bình cẩn trọng mà không thiếu sự sắc sảo Văn Tâm đã cống hiến cho nền văn học chúng ta những tác phẩm dày dặn và thật sự có chất lượng: “Đoàn Phú Tứ - con người và tác phẩm” (1995, tái bản 2002), “Vườn khuya một mình” (2001), “Tản Đà khối mâu thuẫn lớn” (2003 - Tái bản, bổ sung). Một số bài nghiên cứu gần đây của anh về nhà văn Phùng Quán và nhà thơ Bằng Việt đăng trên “Sông Hương” cũng rất công phu, đồng thời vẫn thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận vẻ đẹp của văn chương.

  •        (Trích) Lê Mỹ Ý: Thưa ông, đã từng là "Người đi tìm mặt " trong thơ, đến bây giờ ông đã tìm được khuôn mặt của mình chưa?Hoàng Hưng: Tôi thấy rằng cái mặt của tôi, bản thân cái mặt đó nó cũng không phải là một cái mặt và cũng không phải là bất biến qua thời gian, ngay cả trong từng lúc nó cũng không chỉ là một cái mặt mà nó có đến vài cái mặt. Qua thời gian lại càng có sự diễn biến. Việc đi tìm cái mặt của bản thân thực ra có những người không bao giờ thấy cả, tức là không biết mình như thế nào.

  • Tháng 4 năm 1988, khi đang chữa bệnh ở chùa Pháp Hoa (Đồng Nai), trong một bức thư gửi bạn, nhà văn Nguyễn Minh Châu tâm sự rằng ông vẫn thèm viết tiếp một bài về vấn đề “Nhà văn và sự nghiệp dân chủ hóa đất nước” Nhưng rồi bệnh ngày càng nặng khiến ông cho đến khi qua đời đã không thực hiện xong dự định. Tuy vậy đồng nghiệp và bạn đọc vẫn may mắn được biết ý kiến căn bản của ông về vấn đề này.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐến Hội Văn nghệ một chiều xuân Giáp Thân, tết còn đỏ hạt dưa, còn thắm mai vàng, còn hồng hoa đào và còn lủng lẳng tròn trịa những quả quất trĩu cành - chúng tôi tưởng nhớ anh - nhà thơ luôn dịu dàng, luôn hiền hoà: XUÂN HOÀNG. Bao kỷ niệm một thời nhà thơ sống gắn bó sáng tạo với Bình Trị Thiên, với Huế lại ùa về trong lòng những người đến thắp hương kính viếng hương hồn anh - chiều nay...

  • VÕ QUÊNhững ngày đầu xuân Giáp Thân, giới văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế vô cùng thương tiếc khi nghe tin nhà thơ Xuân Hoàng đã từ trần vào ngày mồng 3 Tết (24.1.2004) tại Thành phố Hồ Chí Minh. Sự ra đi của nhà thơ Xuân Hoàng là một tổn thất lớn đối với phong trào văn học của khu vực Bình Trị Thiên ruột thịt và của cả nước.

  • HỒ THẾ HÀ Ngày thơ Việt Nam chính thức được mang tên, đến nay, đã tròn một năm. Một năm là khoảng thời gian rất ngắn, nhưng trong ý nghĩ và dự cảm của mọi người suốt dòng chảy văn hoá, để thi ca trở thành hiện thực như hôm nay là một quá trình trải nghiệm của lịch sử và truyền thống lâu dài của dân tộc Việt Nam-một dân tộc yêu thi ca, có tiềm năng, trữ lượng và những giá trị thi ca không bao giờ vơi cạn.

  • PV: Là một nhà văn nổi tiếng với những tập truyện ngắn Người sông Hương, Làng thức... và các tiểu thuyết Ngoại ô, Dòng sông phẳng lặng (3 tập), Phía ấy là chân trời... những đứa con tinh thần của anh ra đời gần như tập trung liên tục trong khoảng hơn mười năm (trước và sau 1975). Trừ một số bài viết ngắn đăng ở báo và tạp chí, nếu tôi không nhầm thì, tác phẩm gần đây nhất của anh, tiểu thuyết Phía ấy là chân trời, hình như xuất bản từ năm 1988? Tại sao anh "dừng lại" đột ngột và lâu như vậy?Tô Nhuận Vỹ (TNV): Với lý do gì đi nữa thì việc "tịt đẻ" lâu như vậy cũng là chuyện chẳng hay gì đối với một nhà văn. Trong thời gian tôi "tạm dừng" đó, nhiều tác giả bạn bè tôi đã lao động miệt mài, "đẻ" hàng chục "đứa con tinh thần" rồi đó.

  • NGUYỄN ĐÌNH SÁNGNăm 1975, lần đầu tiên tôi gặp nhạc sỹ Trần Hoàn tại Hà Nội. Lúc đó, tôi đang an dưỡng tại Ban thống nhất Trung ương và có ý định xin về Huế công tác. Nhà thơ Cù Huy Cận Thứ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin lúc bấy giờ đã bảo tôi đến gặp nhạc sỹ Trần Hoàn để trình bày nguyện vọng. Anh tiếp tôi với một ngôn ngữ hết sức dân dã, mang đậm chất miền trung. Anh hỏi: “Mi quê mô?” Tôi thưa cùng anh: “Em người Quảng Trị.” Anh hỏi tiếp: “Rứa mi học cái chi?” Tôi thưa: “Em học thanh nhạc tại Nhạc viện Hà Nội.” Anh nheo mắt cười và trả lời: “Đồng ý! Lên Bộ Văn hoá làm quyết định rồi về công tác. Trong miềng chừ nhiều việc lắm...”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOTôi biết nhạc sĩ Trần Hoàn vĩnh biệt cõi trần vào lúc 5 giờ 6 phút ngày 23 tháng 11 tại bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, nhờ cú điện thoại của một nhà báo gọi đến đặt bài. Đã mấy hôm nay biết ông hôn mê sâu, khó qua khỏi mệnh trời, nhưng khi nghe tin ông qua đời, tôi vẫn chưa tin là ông đã mất.

  • NGUYỄN TUYẾN TRUNGLâu rồi tôi mới có dịp đến thăm nhạc sĩ Mai Xuân Hoà và cô giáo Nguyễn Thị Hồng - hai vợ chồng đều đã nghỉ hưu, vẫn ở tại số nhà 71 đường Bến Nghé thành phố Huế.

  • HỮU THUTrong suốt ba nhiệm kỳ đảm đương cương vị Bí thư Tỉnh uỷ, với anh chị em làm báo, chú Vũ Thắng thường dành cho những ưu ái, đó là có thể gặp gỡ vào bất cứ lúc nào, dù ở cơ quan hay nhà riêng. Do vậy mà ngôi nhà cũ ở đường Mai Thúc Loan quá đỗi thân thiết với nhiều người làm báo, trong đó có tôi.

  • VÕ QUANG YẾNỞ Pháp ngưòi ta thường bảo một con chim én không đủ để báo mùa xuân. Tôi thì tin một nữ sĩ có thể chiếu sáng một chiều thu lá vàng mưa bay nhưng không phải bất cứ ai cũng có thể là nữ sĩ ấy. Chị là thi sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương, ái nữ của cụ Ưng Bình Thúc Giạ Thị.

  • NGUYỄN HUY THẮNGNhững ngày đầu tháng 12-1954, người dân Hà Nội và khắp các vùng xung quanh nô nức kéo đến Nhà hát Nhân dân xem “văn công”. Văn công là từ bấy giờ dùng để chỉ những buổi biểu diễn văn nghệ trên sân khấu nói chung. Nhưng đợt “văn công” cuối năm 54 ấy mang một tính chất đặc biệt, vì là một đại hội có quy mô lớn (Đại hội Văn công toàn quốc), từ kháng chiến về, lần đầu tiên ra mắt công chúng Thủ đô vừa thoát khỏi ách tạm chiếm.