Ba lần rơi

10:27 27/08/2012

Ferit Edgu sinh năm 1936, từng sống sáu năm ở Paris học chuyên ngành gốm. Trong nhiều năm ông là người viết kịch bản quảng cáo và rồi điều hành một nhà xuất bản. Sự vô lý của cuộc đời, những ám ảnh dục tính, sự sa đọa và sự bất hòa của người trí thức là những chủ đề của ông.

Nhà văn Ferit Edgü - Ảnh: internet

Các tập truyện ngắn của ông gồm có “Hunting - 1968”, “On Shipboard - giải thưởng Sait Faik Short Story Award năm 1979”, và “Eastern Tales, 1996”.  Ông còn có những giải thưởng khác: “Class Notes - giải thưởng về lý luận của Hội Ngôn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ”, “It was a Summer in the Shadow of September - giải thưởng văn chương Sedat Simavi Literature Award 1988”, “Words for a Voyage, 1996” và “Mountain Poems, 1999” là những tập thơ quan trọng của ông.
Truyện ngắn dưới đây do Sedat Cilingir, Ali Engin và Senay Kara chuyển ngữ từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ sang tiếng Anh. Bản dịch tiếng Việt theo các dịch giả trên.




FERIT EDGÜ (Thổ Nhĩ Kỳ)

Ba lần rơi


I.

Tôi là một con chim. Tôi đang bay. Tôi gần như nghẹn ngào vì hạnh phúc khi tung cánh trong không trung.

Tôi không phải là một con chim trong khoảng thời gian giữa ngủ và thức, tôi hiểu mình không phải là một con chim; hay nói cách khác tôi là một sinh vật biết rằng mình không phải là chim nhưng lại là chim, có thể bay như chim, tung cánh vào khoảng không. (Một con người?). Mày biết rằng mày không phải là chim tôi tự nhủ. Mày là người, đừng để việc bay bổng dối gạt mày. Đó là một giấc mơ, và trong những giấc mơ người ta cũng có thể bay. Nhưng không phải là chim, tôi tự trả lời.

Tôi một mình trong giường ngủ. Ngay khi tranh luận xong tôi lại chìm vào giấc ngủ. Một lần nữa tôi lại là một con chim tung cánh trong không trung. Tôi lao mình xuống. Đôi cánh tôi gần như chạm vào mặt nước (có một cái hồ phía dưới tôi). Tôi bốc lên ngay bằng cách vỗ cánh. Tôi tiếp tục bay lên cho tới khi tôi hết sức. Rồi một lần nữa lao xuống… Lao xuống nghĩa là thả mình rơi không vỗ cánh. Không vỗ cánh, nặng hơn không khí, hướng về mặt đất… Tôi thấy người thợ săn đàng sau đám sậy bên hồ trong khi tôi liệng mình. Tôi vỗ cánh hai lần, và lại bay lên. Nhưng sao thế này! Tiếng nổ và một cơn đau nơi ngực tôi. Tôi mất thăng bằng. Đôi cánh yếu của tôi làm tôi đau không chịu nỗi khi tôi đập cánh. Tôi đang rơi. Cây cối, bụi rậm và mặt đất đang tiến lại gần tôi hơn, hay là tôi đang tiến lại gần chúng hơn? Cả hai đều có cùng một nghĩa. Tôi lại vỗ cánh để khỏi rơi. Nhưng đôi cánh yếu không thể nâng tôi lên.

Tôi đang chệch hướng bay giữa những lùm cây và bụi rậm, một vài mét bên trên mặt đất. Đừng rơi! Tôi nói với mình. Nếu mày rơi, thì rơi sẽ là sự kết thúc của mày.

Khi mày đang trong những cơn đau quằn quại chờ chết, một con chó chạy đến và kết liễu mày. Tôi ráng sức để không rơi. Khi tôi đập cánh cơn đau bùng phát ghê gớm, vì thế tôi chỉ hơi bay lên. Trong lúc đó, một tiếng nói nội tâm bảo tôi rằng tôi là một con chim thần thánh và rằng khi tôi trút ra hơi thở cuối cùng (tôi trút ra hơi thở cuối cùng với ai, với một con chó hay với một con người?) một con chim mới sẽ bay thoát lên từ cái chết của tôi. Thoát ra từ tro tàn của tôi… Một con chim mới…

Tôi có lại là con chim sẽ cất cánh bay lên đó hay không?

Tôi càng lúc càng khó khăn khi vỗ cánh cùng những câu hỏi này. Tôi đang tìm một lùm bụi. Bây giờ tôi biết mình không thể bay cao lên hơn nữa. Tôi đang tìm một lùm bụi để sống sót, để hít một hơi và nghỉ ngơi. Một lùm bụi sẽ bắt đầu đốt lên ngọn lửa trong ngực tôi ngay khi tôi rơi, và sẽ, cũng đốt cháy tôi. Và tôi thấy lùm bụi đó. Lùm bụi rậm tạo thành một khối ở xa hồ, phía dưới rừng thông. Khi tôi đến đó tôi thôi vỗ cánh. Tôi thả mình rơi xuống. Khi bụi rậm đâm xuyên lớp lông thấu vào da thịt tôi, tôi thắc mắc chút nữa đây làm sao tôi có thể bay lên lại. Tôi nghe thấy tiếng chó sủa thay vì sức nóng của lửa. Tôi vật vã mình giữa bụi rậm để khi con chó đến và kết liễu tôi thì tôi đã chết và lại bay lên. Cũng có thể đó là một con chó thông minh. Nó biết là khi lao vào bụi rậm, thì không có đường ra. Tôi chiêm chiếp rít lên, nhưng giọng tôi bị nghẹt. Khao khát lửa. Tiếng chiêm chiếp của một con chim ước được chết đi cho dù nó không thể bay lên trở lại. Tôi cho là con chó nghe được tiếng rít của tôi, nó quay mình lại và bắt đầu bỏ chạy. Người thợ săn hoang mang nhìn chung quanh và nhìn con chó.

II.

Tôi là người thợ săn trong giấc mơ thứ hai của tôi.

Có một con chim trong bầu trời, khá lớn và khá đẹp… không giống với con chim nào tôi từng thấy trước đây. Tôi có thể gọi nó là gì, một con công hay là con phượng hoàng? Tôi không biết. Chưa bao giờ tôi săn được một con như vậy, hay từng thấy một con như vậy bị săn.

Cầm cây súng săn chúi nòng xuống đất, trong một hồi lâu, trong một hồi khá lâu tôi nhìn con chim bay trên bầu trời. Hoàn toàn đơn độc. Có vẻ như con chim say mê sự bay bổng. Sau cùng thì lòng ham mê săn bắn chiến thắng. Tôi chầm chậm nâng nòng súng lên trời. Tôi nhắm vào con chim (cứ như là) tôi không thể không làm việc đó. Và tôi kéo cò.

Hai phát súng, phát này sau phát kia. Vài cánh lông trôi trong không khí. Con chim có vẻ như rơi xuống nhưng rồi lại bay lên. Nhưng nó không còn bay theo cách như trước. Nó không lượn trong không trung. Nó giống như con cừu tế thần loạng choạng trên mặt đất, chỉ khác là nó loạng choạng trên không trung. Ước gì nó rơi trên bờ chứ đừng rơi xuống hồ. Trong nhiều phút hay nhiều giây tôi không biết (dường như khá lâu đối với tôi, còn với nó thì sao?) con chim cố gắng bay lên. Rồi kiệt sức, nó bắt đầu rơi, lảo đảo. Sự yếu sức của nó, đôi cánh bị thương của nó không thể thắng được lực hấp dẫn. Còn cách mặt đất vài mét, có vẻ như nó lấy lại được thăng bằng. Nhưng nó không thể bay lên. Mà cũng không rớt xuống. Nó bay song song với mặt đất. Dường như nó tìm một nơi trú ẩn, một nơi mà tôi hay con chó của tôi không thể tìm thấy, hay không thể với tới nếu chúng tôi tìm thấy nó.

Nó tiếp tục bay thêm một lát như thể bị trôi giạt. Rồi nó rơi xuống như một ngôi sao băng vào một lùm bụi (dường như nó đã chọn đó là đích đến của nó). Con chó của tôi đã chạy đến chỗ nó rơi xuống rồi. Con chó đang sủa bên lùm bụi. Nhưng nó sủa tuyệt vọng. Nó sợ vào lùm bụi. Hai tai cụp xuống, mệt mỏi vì sủa, nó vội chạy về phía tôi. Nó thả đuôi rũ giữa hai chân, đầu cứ cúi xuống như thể xấu hổ…

III.

Trong giấc mơ thứ ba của tôi tôi thấy mình là một con chó. Một con chó săn gầy nhẳng, mình dài, nhiều nghĩ ngợi, chăm chú và mũi dí sát đất. Người thợ săn. Ông ta để mặc tôi tự do khi chúng tôi đến hồ. Mặc tôi một mình với con mồi của tôi. Tôi nhìn quanh, không có con mồi nào. Người thợ săn không nhìn tôi. Ông nhìn lên trời. Ông cứ nhìn trời. Trước đây tôi không biết người thợ săn này. Ông không phải là người đã huấn luyện tôi (chủ tôi). Nhưng tôi không nhớ được người chủ thật sự của tôi, mùi của ông hay mặt của ông. Hai người lạ (Tôi: con chó, ông ta: người thợ săn), chúng tôi đang đi săn.

Con chó và người thợ săn. Người thợ săn và con chó.

Có gì là quan trọng việc chúng tôi quen hay không quen nhau? Có gì là quan trọng việc ông ta có phải là người chủ thực sự của tôi hay không? Số phận và đam mê hẳn đã ghép chúng tôi lại với nhau.

Tôi cảm thấy muốn nhìn mặt người đàn ông tôi đã bị kết hợp bởi số phận và đam mê này. Nhưng ông ta thì cao và đầu ông ngẩng lên trời làm tôi không thể nhìn thấy mặt ông. Mắt tôi đã không chạm mắt ông từ khi chúng tôi khởi hành đi săn. Ông không hề cúi thấp đầu. Một con chim đang bay trên trời. Chắc là ông ta nhìn con chim. Mới đầu tôi cho đó là một con diều hâu. Vì nó khá lớn. Rồi tôi nhận ra những màu lông của nó. Những cánh lông trắng, đen và đỏ. Tôi chưa hề thấy con chim nào như vậy trước đây. Tôi bắt đầu sủa. Tôi chạy về phía hồ sủa đuổi những con vịt trời bay lên cho người thợ săn nhìn thấy chúng. Những con vịt trời bay, nhưng người thợ săn không chú ý đến chúng. Tôi ngồi dưới chân người thợ săn (như đã được huấn luyện). Ngay khi tôi ngồi tôi nghe được tiếng súng và bắt đầu chạy. Đến nơi tôi đoán có con chim tuyệt vọng, đập cánh trên không, sẽ rơi xuống.

Con chim ráng hết sức để không rơi. Nhưng nó đang vỗ cánh yếu ớt. Giờ thì tôi biết tôi đang đi cùng một người thợ săn tồi. Hai phát súng, phát này sau phát kia, vậy mà con chim vẫn sống. Nó sẽ chết, nhưng không phải chết trên trời. Hiển nhiên là nó đã bị thương chí tử. “Bên trái!”, người thợ săn nói. Nhưng tôi sẽ mang về cái gì đây? Con chim không rơi xuống đất hay xuống hồ. Nó vẫn còn trên không.

Tôi đang chạy. Con chim sắp rơi. Nó vẫn đập cánh phía bên trên tôi. Nó cố không rơi xuống. Rồi con chim đột ngột kiệt sức thả mình rơi vào lùm bụi. Một lùm bụi không thể vào và đem con chim ra. Tất cả những gì tôi có thể làm là sủa. Rồi tôi cũng mệt vì sủa. Tránh xa con mồi và người thợ săn, tôi bắt đầu chạy, có lẽ về nơi vô định.

Tôi là người thợ săn đang thức dậy

Là con chim đang thức dậy

Là con chó đang thức dậy

Và…

Võ Hoàng Minh dịch
(SH282/08-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nhự Chí Quyên là nhà văn ngoại sáu mươi, từng có tác phẩm những năm 1950. Truyện ngắn Thỏa nguyện (Như nguyện) của ông ca ngợi tấm lòng thương con của một bà mẹ công nhân, được coi là đặc sắc thời ấy.

  • Stephen King (1947, Maine, Mỹ), nhà văn được xem là có công phục hồi thể loại truyện kinh dị trong thế kỷ 20.

  • Đônchô Sônchép - nhà văn Bungari (sinh năm 1933). Tốt nghiệp khoa địa chất trường ĐHTH Xôphia. Làm nghề địa chất hơn 10 năm.

  • A. J. MCKENNA (Anh)

    Đó là sinh nhật của Jim Brennan. Ông thức giấc vào buổi sáng tháng Tám ẩm ướt này, giật mình bởi tiếng chim hót vang khắp khu vườn. Đầu óc rối bời, ông cứ nằm mãi, gắn ánh mắt vô hồn vào mảng giấy hoa dán tường đã bạc phếch, đối diện chiếc giường bừa bộn của ông, nơi mặt trời sưng sỉa hắt ánh hồng lên.

  • LGT: Tiểu thuyết Đừng khóc (Sans pleurer) của nữ văn sĩ Pháp Lydie Salvayre vừa vinh dự được nhận giải thưởng Goncourt năm 2014, giải thưởng văn chương cao quí nhất nước Pháp nói về cuộc nội chiến đẫm máu Tây Ban Nha (1936 - 1939) thế kỷ trước với những hệ lụy nặng nề của nó.

  • LTS: Ivan Ptôrôvich Samiakin, tác giả những tiểu thuyết nổi tiếng "Giây phút tốt lành", "Dòng chảy xiết", "Những trái tim trên lòng bàn tay", "Mùa đông đầy tuyết", "Tôi mang theo nỗi đau của em", "Pêtirôgôrút - Bêrextơ" cùng nhiều truyện ngắn, kịch, kịch bản phim.

  • Edwidge Danticat ra đời tại thành phố Port-au-Prince, Haiti năm 1969. Đậu Cử nhân Văn Học Pháp tại Barnard College, và Thạc sĩ Nghệ Thuật tại Brown University, cô hiện đang giảng dạy tại New York University (NYU).

  • LTS: John Steinbeck ra đời vào ngày 27 tháng 2 năm 1902 tại Salinas thuộc tiểu bang California. Các tác phẩm của văn hào John Steinbeck miêu tả cuộc sống của tầng lớp dân nghèo, phản ánh bất công trong xã hội, với nhiều dấu hỏi trước cảnh sống, với lối viết hấp dẫn.

  • VLADIMIR NABOKOV

    Vài năm trước, bác sĩ Fricke có đưa Lloyd và tôi một câu hỏi mà giờ đây tôi sẽ thử trả lời.

  • ANAR (Azerbaijan)

    Hôm qua số điện thoại của em đã chết. Không phải chỉ con người mới chết. Những con số điện thoại cũng có chết đấy.

  • KENELKES (Anh)

    Khi David bước ra cửa, cậu hơi bị hoa mắt bởi ánh sáng mặt trời trắng lóa, và theo bản năng cậu chới với chụp lấy tay cha.

  • L.T.S. Sylvain Bemba sinh năm 1936 tại Congo, ông từng giữ chức Tổng biên tập của Thông tấn xã Congo Brazaville trong nhiều năm.
    Truyện ngắn Phòng tối dưới đây được chiếm giải nhất trong cuộc thi truyện ngắn Châu Phi năm 1964, do tạp chí Preuves tổ chức và được in lại trong tuyển tập Văn học châu Phi, ấn hành 1968 tại Bỉ.

  • LTS: Tàn Tuyết tên thật là Đặng Tiểu Hoa, sinh năm 1953, tác gia tiêu biểu của phái tiên phong, là một hiện tượng độc đáo trên văn đàn Trung Quốc đương đại. Được phương Tây đánh giá là nhà văn Trung Quốc cách tân nhất hiện nay, tác phẩm được đưa vào giáo trình của các trường đại học nổi tiếng trên thế giới như đại học Harvard, đại học Tokyo… nhưng bản thân Tàn Tuyết chưa từng học lên trung học.

  • LTS: Yasunari Kawabata (1899-1972), là nhà văn Nhật lỗi lạc nhất của thế kỷ XX, giải Nobel năm 1968. Tác giả của nhiều thiên kiệt tác đậm đà chất phương Đông mà cả thế giới đều ngưỡng mộ: Ngàn cánh hạc, Vũ nữ Izu, Xứ tuyết, Tiếng núi rền, Cố đô

  • Dino Buzzati sinh năm 1906 tại Belluno, mất năm 1972 ở Milano (Italia). Trước khi viết văn, ông là họa sĩ, nhạc sĩ và nhà báo, từng là phóng viên chiến trường và phụ trách mục phê bình nghệ thuật cho Corriere della Sera, một nhật báo quan trọng nhất nước Ý.

  • TÔN THẮNG LỢI (Trung Hoa)

    Nền xi măng phòng làm việc đang còn những vệt ẩm của chiếc giẻ cọ sàn. Như thường lệ mọi buổi sáng, tôi tự dọn dẹp lấy phòng làm việc. Một lối sống giản dị, có phần khắc khổ. Mà không cần phải phô trương, cuộc cách mạng văn hóa đã kết thúc.

  • RAPHAEN XÔLE (Cu Ba)

    Khi con người mở mắt ra (nỗi sợ hãi đã buộc chúng khép lại), thì việc đầu tiên mà anh ta trông thấy là cái hố có đường kính hai mét và một vòng tròn nhỏ màu xanh nằm cao chừng mười mét ở phía trên.

  • ALICE MUNRO

    LGT: Alice Munro sinh ngày 10 tháng bảy năm 1931 ở Wingham, Ontario, Canada, với tên khai sinh là Alice Ann Laidlaw. Cha của bà là chủ nông trại, mẹ là cô giáo.

  • LGT: Romain Gary tên thật là Romain Kacew, sinh năm 1914 tại Moskva và được nuôi dưỡng bởi một người mẹ đã đặt rất nhiều kỳ vọng nơi con trai mình. Năm 14 tuổi, ông theo mẹ đến Pháp và định cư tại Nice.

  • IURI BONDAREP

    Lần đầu tiên, chúng tôi nhìn thấy cô ta ở cạnh bàn bóng bàn ở sân hành lang nhà an dưỡng. Cô mặc chiếc áo len dài tay màu xanh, chiếc váy thật thẳng nếp, mái tóc màu sáng được cắt ngắn, và cứ mỗi lần vụt rơkét cô lại hất mạnh những sợi tóc vương khỏi trán. Những lúc như vậy, đôi mắt nâu đen của cô lại mỉm cười.