173 chuyện về Hà Nội phố

15:15 02/01/2009
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

Bỗng nhiên, trong mấy năm trở lại đây, người đọc thấy bên cạnh Băng Sơn nhà thơ, lại xuất hiện thêm một Băng Sơn viết văn xuôi với tất cả sự khoẻ khoắn, cường tráng, mạnh mẽ tuôn chảy như không có gì ngăn cản nổi, như có một trữ lượng đã trầm tích lâu ngày, làm tổ trong tâm hồn ông, nay mới có điều kiện bộc lộ, mới tìm được giọng điệu của chính mình.
Chỉ tính riêng năm 1993, khi mái tóc đã trắng màu thời gian và tuổi đời đã bước vào ngưỡng cửa sáu mươi, ông liên tục cho ra mắt độc giả ba cuốn sách, gồm 173 chuyện viết về Hà Nội, với gần sáu trăm trang sách: Thú ăn chơi người Hà Nội (Nxb Văn hoá), Hương sắc bốn mùa (Nxb Phụ nữ), Ngàn mùa hoa (Nxb Phụ nữ). Thì cũng là con người đó, tâm hồn đó thôi, có khác chăng là, qua rồi cái thời yêu đương sôi nổi, dễ vui dễ buồn, để nay tình yêu lắng lại, kết tủa thành ngôn từ với tất cả sự điềm tĩnh, cô đọng và đủ độ chín, độ sâu của đời sống. Và, điều ấy buộc phải dùng đến ngôn ngữ thô mộc của chính đời sống, mới có thể biểu hiện đúng những gì đang trỗi dậy, chảy qua tâm hồn ông. Văn xuôi của Băng Sơn có cái là tuỳ bút, là tản văn, có cái là đoản văn, là ngẫu văn, thậm chí có cái là tạp văn, là ét-xe (aissai), có cái là sự hoà trộn thật khó phân biệt tiểu loại, nhưng đều được ông gọi chung là tuỳ bút.

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, ông cho rằng: “Tôi nguyên là người làm thơ. Tôi quan niệm rằng, tuỳ bút rất gần với thơ. Tuỳ bút và thơ như anh em sinh đôi. Tôi suy nghĩ như thế này không biết có đúng không: Tôi tư duy bằng thơ nhưng tôi biểu hiện ra bằng văn xuôi. Tôi đi sâu vào một tiểu loại mà hầu như lâu nay  không ai viết, đó là đoản văn, mỗi bài chỉ độ ba, bốn trăm chữ, chưa đầy một trang giấy đánh máy. Tôi cho rằng, nếu viết những đoạn ngắn này cho thật hay, thì mỗi bài như vậy, nó cũng sẽ nói lên được một vấn đề, hoặc giới thiệu được một cảnh vật, một nét văn hoá, thí dụ như một cây khoai nước, một cái cầu ao, một cái tháp nước,...Viết vài ba trăm chữ mà người đọc thích, cũng là điều đáng viết” (1).

Cả ba cuốn sách, tuy có thể được viết ra trong ba thời điểm khác nhau, nhưng cùng được ấn hành trong một năm, và khi đặt cạnh nhau, như những bức tranh liên hoàn về diện mạo đời sống văn hoá tinh thần của Hà Nội. Lẽ cố nhiên, sự bắt đầu của Băng Sơn là đi từ đời sống vật chất, từ những hình ảnh thân quen như chuyện ăn, chuyện mặc, thú vui chơi ca hát, các buổi tiệc tùng, phong tục tập quán... Nhưng, tất cả đều được nhìn dưới góc độ văn hoá tinh thần, để tạo nên một thế giới hình tượng qua những trang văn giàu cảm xúc, mang vẻ đẹp đích thực của văn hoá Thăng Long, và rộng hơn, có thể nói là văn hoá dân tộc, từ trong cội nguồn của lịch sử. Ở Thú ăn chơi người Hà Nội (270 tr.), gồm 20 chuyện về ăn, 15 chuyện về chơi, 10 chuyện về thời tiết, khí hậu, hoa lá, cỏ cây... không chỉ có giá trị về văn chương mà còn có giá trị thực tiễn. Chẳng hạn, những trang viết về các món ăn như Bát nước chấm, Gia vị, Món luộc, Bánh đúc quê hương, Bánh dày bánh giò, không chỉ mang lại những hiệu ứng thẩm mỹ cho người đọc mà còn là những bài học về nữ công gia chánh, về công việc Nội trợ của người phụ nữ, đồng thời còn thể hiện tác giả là người có “tâm hồn ăn uống” một cách sành điệu: “Đang đói mà mất hứng, mà phí công đi xa, ăn không thấy ngon nữa, vì cháo gà, hỏi đến hạt tiêu, ông hàng cháo bảo không có, chỉ có tương ớt. Cháo gà mà ăn với tương ớt thì như thịt gà chấm với nước cáy vậy...”. Hương sắc bốn mùa (192 tr.), gồm có 33 chuyện, là sự tiếp tục mạch cảm xúc trong Thú ăn chơi người Hà Nội, nhưng có phần đi sâu vào những phong tục tập quán, những di tích văn hoá lịch sử, những lễ hội truyền thống dân gian nhiều hơn.

Cũng bắt đầu từ văn hoá vật chất như Nồi cơm, Bát cháo, Chén canh, Món xôi đến các di tích văn hoá, các mỹ tục như Ăn tết chơi tết, Hát văn, Cửa ô, Hàng Bạc, Phố Huế, Yên Phụ... Chuyện không chỉ có vậy, từ việc này ông có thể hướng người đọc liên tưởng đến việc khác, hình dung ra những điều đằm sâu, nén chặt bên trong. Nói đến Nồi cơm (4 tr.), nhưng thực ra ông còn nói về tấm lòng người mẹ, người phụ nữ Việt Nam, chỉ qua vài câu có thể hình dung ra tất cả những đức tính, những phẩm chất mà đôi khi những đúc kết thành khẩu hiệu làm người ta khó hình dung: “Những bát cơm đầy ân tình... Ăn trông nồi... Mẹ là người cầm chịch. Mẹ ăn nhỏ nhẻ, ngắm xem, quan sát những người thân yêu nhất của mình trong bữa ăn, giờ đông đủ nhất của cả gia đình...Thừa, thiếu, hay đủ, đều do mẹ. Có khi mẹ bảo tự nhiên hôm nay no, ăn ít đi. Có khi mẹ lại ăn cố...Chúng ta đâu biết tình mẹ bao la trong hành động con con ấy. Cũng có khi nồi cơm đã tơi rồi mà mẹ vẫn không ngơi tay cứ đánh mãi...Mẹ chờ cái bát không của ai đó sắp đưa cho mẹ.” Liệu ngày nay còn mấy ai dạy cho con gái mình những điều này và những bà mẹ trong tương lai mấy ai còn biết ăn phải trông nồi!

Ngàn mùa hoa (132 tr.), gồm 95 chuyện tập trung cho đối tượng độc giả ở lứa tuổi mới lớn với những cảm xúc trong lành, tươi non được ông mở rộng ra một không gian xa hơn về các làng quê phố huyện như Tiếng hát đồng quê, Cây đa làng, Cái tết làng, Đám cưới quê, Điếm canh đê, Ăn bánh chưng, Cánh bèo, Đò ngang, Đò dọc... những chuyện tưởng như không có gì và không còn gì để nói nữa, nhưng với ông, mỗi sự việc, mỗi đồ vật đều có một đời sống riêng, đều có thể trở thành đối tượng để đối thoại, giãi bày, và đã trở thành thế giới tâm hồn của nhà văn lung linh toả bóng. Cái không khí đặc sánh chất thơ trong Đêm ca trù với tiếng sênh phách gõ nhịp vào tâm hồn người đọc, làm trỗi dậy một không gian mơ hồ trong ký ức xa xôi: “Ta ngồi một mình trong đêm xuân nghe từng bước thời gian đang vần chuyển gấp gáp, vội vàng, vừa rón rén khoan thai e lệ, hồi âm lại hồn ta trong tiềm thức  trẻ thơ cũng được sống cùng không khí ẩn hiện tài tình như thế”.

Cũng chính những chuyện không có chuyện, không còn chuyện để nói đó, đã từng được nói đến trong cổ tích, trong truyền thuyết, chuyện kể dân gian, trong những trang văn đầy ắp hương hoa của những cây bút tài hoa một thời làm say lòng người đọc như Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, nay cũng chỉ là những chuyện cũ ấy thôi, bỗng cựa quậy, sống dậy trong tâm hồn Băng Sơn, đòi lên tiếng, ngân lên bao điều mới mẻ, bất ngờ làm cháy lòng người đọc. Có lẽ, bởi cọc neo chính của dòng chảy đời sống văn hoá tinh thần của các nhà văn đều có chung cái cốt lõi, đó là tình yêu mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng,Việt Nam nói chung, là truyền thống, là cốt cách tâm hồn dân tộc, những điều căn cốt làm nên bản sắc văn hoá của đất nước, đã thắm một màu Việt Nam, không hề bị tàn phai qua bao nỗi thăng trầm. Văn xuôi của Băng Sơn là văn xuôi trữ tình phong tục. Do đó, ông rất gần với Thạch Lam trong Hà Nội ba sáu phố phường, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai Miếng ngon Hà Nội, Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời. Trong trả lời phỏng vấn báo chí ông cũng từng thừa nhận là thích ba tác giả đàn anh này (2). Có người cho rằng, do ông ra đời ở xứ Đông, cách Hà Nội bốn mươi cây số, ở làng Cẩm Giàng, nơi có cái ga sầm uất, nơi sinh ra ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam, nên “trong văn Băng Sơn phảng phất cái trong sáng, đôn hậu, chan chứa tình người của Thạch Lam, cái đằm thắm của Hoàng Đạo, cái mơ màng của Nhất Linh”.(3)

Điều quan trọng hơn là cùng quan tâm về một vùng văn hoá, một miền quê sáng tác, nhưng mỗi người có một giọng điệu văn chương. Ở Băng Sơn, cũng có một chút lịch sử, một chút cổ tích hoặc truyền thuyết, chuyện kể dân gian, được thể hiện thông qua bút pháp tự sự thấm đẫm chất trữ tình, vừa ngắn gọn, súc tích, vừa chính xác đến từng chi tiết, mỗi đoản văn chỉ từ một đến năm trang sách, vừa phù hợp với tâm lý người đọc hiện đại, vừa phù hợp với mọi lứa tuổi. Chẳng hạn, Ngàn mùa hoa, gồm 95 đoản văn, gói gọn trong 132 trang sách, ông viết dành cho lứa tuổi học trò, khoảng từ mười hai đến mười sáu, mười bảy tuổi, là sự “nhắc nhở kín đáo của Băng Sơn với việc bảo tồn nền văn hoá dân tộc và làm phong phú tâm hồn cho lớp lớp trẻ thơ” (4), nhưng thật ra còn là những câu chuyện bổ ích cho những người làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, khi đến với Ngàn mùa hoa như bắt gặp những tia hồi quang êm dịu trong ký ức một thời đã trôi xa, không ngừng phát hiện để có thể hiểu thêm về mình và con cháu mình. Đặc sắc nhất là những trang hồi ức kỷ niệm, là sự thật cuộc đời của nhân vật trữ tình, cũng chính là hình tượng của tác giả, của người thân như luôn đồng hành cùng với cuộc sống của dân tộc, của đất nước. Hãy nghe Băng Sơn giải thích về công việc của mình: “Có ai không trải qua niềm vui hay nỗi buồn khi con tàu chở mình bắt đầu chuyển bánh rời ga, rền rĩ hồi còi, sầm sập uốn mình lao đi...” Có thể tìm thấy rất nhiều đoạn văn hay và đẹp, đọc lên mọi người đều thấy sự hồn hậu, nhân ái, gần gũi với tâm hồn mình trong trang viết của ông.

Băng Sơn làm thơ, diễn kịch từ thuở còn là học sinh Tú tài những năm năm mươi của thế kỷ XX, tham gia đoàn nhạc kịch Tháng Mười chào mừng giải phóng Thủ đô, rồi có thơ in cùng thời với Ngô Văn Phú, Bùi Minh Quốc, Trần Nhật Lam, Vân Long, nhưng mãi đến năm 1984 ông mới có tập “thơ ba người” Nắng bên sông (chung với Nguyễn Xuân Thâm và Lư Giang, Nxb Tác phẩm mới), sau đó là tập Thơ hai người (chung với Nguyễn Hà, Nxb Văn hoá, 1992). Nhưng bắt đầu từ “bộ ba liên hoàn” với 173 chuyện về Hà Nội phố (1993) đến nay, ông liên tục cho ra mắt độc giả gần mười đầu sách: Con thuyền hoa (Kim Đồng, 1995), Nước Việt hồn tôi (Phụ nữ, 1995), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 2, Văn hoá, 1996), Bóng bảy màu (Kim Đồng, 1996), Nghìn năm còn lại (Hà Nội, 1996), Cái thú lang thang (Hà Nội, 1997), Đường vào Hà Nội (Hà Nội, 1997), Con chim gọi quả (Kim Đồng, 1997), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 3, Thanh niên, 1999) và còn chuẩn bị cho ra mắt cuốn Một trăm ngôi nhà Hà Nội... Quả là, mấy nghìn trang sách đã tạo ra một Băng Sơn đa tài nhưng cũng rất đa đoan,  hay như cách gọi của Vân Long là “nhiều nhà trong một nhà”: nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch (tác giả mười vở kịch thơ đã được công diễn và nhiều vở phóng tác từ tác phẩm nước ngoài như Những người khốn khổ, Ngài tổng thống, Tristant và Yseul...), nhà diễn kịch, nhà báo (phóng viên các báo Thuỷ sản, Độc lập...), nhà Hà Nội học, nhà chơi đào thế, nhà... ăn chơi học! Phải ăn và chơi như thế nào mới thấm đẫm vào trang văn mượt mà, sâu sắc và cũng sành điệu đến mức ấy chứ! Trong các nhà ấy, nổi bật nhất là nhà văn, nhà tản văn phong tục đặc sánh trữ tình về văn hoá Hà Nội. Với tôi, có chút thiên vị của người dân ngụ cư, gần gũi và ấn tượng lâu bền nhất, là những trang ông viết về  Huế, có liên quan đến Huế, như Phố Huế, Nguyễn Bính với cố đô Huế, Bến Ngự- hồn ca...
            P.P.P

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



-------------
(1), (2), Trả lời phỏng vấn báo Thừa Thiên - Huế  30. 4. 1997
(3), Nguyễn Kế Nghiệp, Băng Sơn- cây bút tài hoa của đất Hà Thành, Hội thảo Tuỳ bút của Băng Sơn về Hà Nội, ngày 23. 4. 1996 tại Thư viện Hà Nội.
(4), Hoàng Quốc Hải, Băng Sơn- từ Ngàn mùa hoa qua Hương sắc bốn mùa đến Nước Việt hồn tôi, htđd.


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)

  • NGUYỄN GIA NÙNGCả cuộc đời và sự nghiệp văn thơ của Cao Bá Quát là một chuỗi dài những bi kịch của cuộc tìm kiếm không ngừng, không nghỉ về lẽ sống ở đời, về vai trò của văn thơ nói riêng, về kẻ sĩ nói chung. "Mình là ai?" "Mình có thể làm được gì? Làm thế nào để có thể tự khẳng định mình và có thể giúp ích được cho đời?" Có thể nói những câu hỏi ấy luôn trăn trở, dằn vặt trong con người Cao Bá Quát từ khi tự ý thức được tài năng của mình cho đến lúc từ giã cõi đời mà vẫn chưa tìm được lời giải đáp trong một chế độ đầy rẫy bất công, phi lý mà mọi con đường để thoát ra, với ông, đều mờ mịt và chính ông, dù đã cố công tìm, bế tắc vẫn hoàn toàn bế tắc.

  • THẠCH QUỲBài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được tuyển chọn để giảng dạy ở trường phổ thông vài chục năm nay. Đó cũng là bài thơ xuất sắc được bạn đọc cả nước yêu mến. Tuy vậy, cho đến hôm nay, cái hình ảnh “Mặt chữ điền” đầy sức quyến rũ và ám ảnh ấy vẫn chưa được nhận chân, nhận diện một cách chính xác.

  • HỒ THẾ HÀNhư một quy luật hiển nhiên, có sáng tác văn học thì sớm muộn gì cũng có phê bình văn học và lý luận văn học, càng về sau, có thêm các phương pháp nghiên cứu, phê bình văn học - với tư cách là trường phái, trào lưu nối tiếp nhau nhằm tiếp cận và giải mã tác phẩm ngày một đa dạng, tối ưu, hiện đại để không ngừng làm đầy những giá trị và ý nghĩa chỉnh thể của tác phẩm văn học.

  • PHONG LÊTrong văn học Việt Nam, trước trào lưu hiện thực, hình ảnh người trí thức đã có mặt trong khuynh hướng lãng mạn của Tự lực văn đoàn. Đó là các nhân vật trong vai điền chủ, luật sư, quan lại - có vốn tri thức và có chút băn khoăn, muốn nhìn xuống nỗi khổ của những người dân quê, và mong thực hiện một ít cải cách cho đời sống họ đỡ tối tăm và đỡ khổ.

  • MÃ GIANG LÂNCách nhân bản thơ, xuất bản thơ bằng "công nghệ sạch" của loài người có từ ngày xửa ngày xưa dưới hình thức ngâm thơ và đọc thơ. Người Việt chúng ta ngâm thơ là truyền thống. Tiếng Việt nhiều thanh, giàu tính nhạc, giọng ngâm có sức vang, sức truyền cảm.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Chương trình Văn học lớp 11, chỉnh lí năm 2000, phần tác giả Cao Bá Quát, bài Đề sau khúc Yên Đài anh ngữ của ông đô sát họ Bùi, giảng một tiết, được thay bằng bài Dương phụ hành (Bài hành về người thiếu phụ phương Tây). Cả sách học sinh và sách giáo viên đều không có chú thích gì về "hành", ngoài cách chuyển y khi dịch sang tiếng Việt như vừa ghi.

  • ĐIỀN THANHAndy Warhol nổi tiếng là người đùa rỡn với chuyện danh tiếng, nhưng niềm say mê của ông với sinh hoạt hiện đại có hàm chứa một không gian tối xám hơn nhiều. Đó là việc ông bị ám ảnh bởi cái chết, điểm này cho mỗi chúng ta biết nhiều nhất về tinh thần của thời đại ngày nay…

  • ĐINH VŨ THUỲ TRANGThời Đường là thời đại cực thịnh của dân tộc Trung Hoa về mọi mặt, trong đó có thơ ca. Câu nói này có vẻ sáo mòn nhưng không thể không nhắc đến khi nhìn vào những trang sử vàng son ấy. Chúng ta biết đến ba nhà thơ lớn đời Đường là Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị... Nhưng phải nói rằng, chỉ đọc thơ của họ thì chưa thấy hết được cái hay của thơ Đường. Bởi lẽ, các nhà thơ tuy cùng khuôn luật, cùng chủ đề... nhưng mỗi người đều riêng khác nhau.

  • LÝ HOÀI THUSự vận động và phát triển của một giai đoạn văn học luôn diễn ra song hành cùng sự vận động và phát triển của các loại thể văn học. Nói một cách khác: sức sống của một giai đoạn văn học được biểu hiện rõ rệt nhất qua diện mạo thể loại. Chính vì vậy, thể loại vừa là sự "phản ánh những khuynh hướng lâu dài và hết sức bền vững của văn học" (1) vừa là sự hồi sinh và đổi mới liên tục qua mỗi chặng đường phát triển.

  • INRASARA (Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009)

  • HÀ VĂN THỊNH Những cái tên - có lẽ không giản đơn như cách nói của người Nga - " Người ta gọi tôi là...”  Ở đây, lớp vỏ của ngôn từ chỉ diễn tả một khái niệm mù mờ nhất của một lượng thông tin ít nhất.Trong khi đó, có bao giờ ta nghĩ rằng một cái tên, không ít khi hàm chứa thật nhiều điều - thậm chí nó cho phép người khác biết khá rõ về tính cách, khả năng và ngay cả một phần của số phận của kiếp người?

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Ivan Bunhin (1870-1953) là một nhà văn xuôi Nga nổi tiếng của thế kỷ XX. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông trải qua những bước thăng trầm gắn với nhiều biến động dữ dội mang tính chất thời đại của nước Nga vào những năm cuối thế kỷ XIX và mấy chục năm đầu thế kỷ XX.

  • LÊ THÀNH NGHỊCâu hỏi “ta là ai?”, “ta vì ai” nổi tiếng của Chế Lan Viên tưởng đã tìm ra câu trả lời có chứa hạt nhân hợp lý của thời đại trong thơ chống Mỹ đã không còn đủ sức ôm chứa trong thời kì mới, khi nhu cầu xã hội và cá nhân đã làm thức tỉnh cái tôi trữ tình của người làm thơ. Nhu cầu xã hội thường là những gì bức thiết nhất của thực tại, do thực tại yêu cầu. Chẳng hạn, thời chống Mỹ đó là độc lập tự do của dân tộc. Tất cả những hoạt động tinh thần, trong đó có sáng tác thơ văn, nếu nằm ngoài “sự bức thiết thường nhật” này không phù hợp, không được đón nhận... và vì thế không thể phát triển. Kể từ sau năm 1975, đặc biệt là sau 1986, với chủ trương đổi mới, trong xã hội ta, nhu cầu bức thiết nhất, theo chúng tôi là khát vọng dân chủ.

  • LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.