173 chuyện về Hà Nội phố

15:15 02/01/2009
PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.

Bỗng nhiên, trong mấy năm trở lại đây, người đọc thấy bên cạnh Băng Sơn nhà thơ, lại xuất hiện thêm một Băng Sơn viết văn xuôi với tất cả sự khoẻ khoắn, cường tráng, mạnh mẽ tuôn chảy như không có gì ngăn cản nổi, như có một trữ lượng đã trầm tích lâu ngày, làm tổ trong tâm hồn ông, nay mới có điều kiện bộc lộ, mới tìm được giọng điệu của chính mình.
Chỉ tính riêng năm 1993, khi mái tóc đã trắng màu thời gian và tuổi đời đã bước vào ngưỡng cửa sáu mươi, ông liên tục cho ra mắt độc giả ba cuốn sách, gồm 173 chuyện viết về Hà Nội, với gần sáu trăm trang sách: Thú ăn chơi người Hà Nội (Nxb Văn hoá), Hương sắc bốn mùa (Nxb Phụ nữ), Ngàn mùa hoa (Nxb Phụ nữ). Thì cũng là con người đó, tâm hồn đó thôi, có khác chăng là, qua rồi cái thời yêu đương sôi nổi, dễ vui dễ buồn, để nay tình yêu lắng lại, kết tủa thành ngôn từ với tất cả sự điềm tĩnh, cô đọng và đủ độ chín, độ sâu của đời sống. Và, điều ấy buộc phải dùng đến ngôn ngữ thô mộc của chính đời sống, mới có thể biểu hiện đúng những gì đang trỗi dậy, chảy qua tâm hồn ông. Văn xuôi của Băng Sơn có cái là tuỳ bút, là tản văn, có cái là đoản văn, là ngẫu văn, thậm chí có cái là tạp văn, là ét-xe (aissai), có cái là sự hoà trộn thật khó phân biệt tiểu loại, nhưng đều được ông gọi chung là tuỳ bút.

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí, ông cho rằng: “Tôi nguyên là người làm thơ. Tôi quan niệm rằng, tuỳ bút rất gần với thơ. Tuỳ bút và thơ như anh em sinh đôi. Tôi suy nghĩ như thế này không biết có đúng không: Tôi tư duy bằng thơ nhưng tôi biểu hiện ra bằng văn xuôi. Tôi đi sâu vào một tiểu loại mà hầu như lâu nay  không ai viết, đó là đoản văn, mỗi bài chỉ độ ba, bốn trăm chữ, chưa đầy một trang giấy đánh máy. Tôi cho rằng, nếu viết những đoạn ngắn này cho thật hay, thì mỗi bài như vậy, nó cũng sẽ nói lên được một vấn đề, hoặc giới thiệu được một cảnh vật, một nét văn hoá, thí dụ như một cây khoai nước, một cái cầu ao, một cái tháp nước,...Viết vài ba trăm chữ mà người đọc thích, cũng là điều đáng viết” (1).

Cả ba cuốn sách, tuy có thể được viết ra trong ba thời điểm khác nhau, nhưng cùng được ấn hành trong một năm, và khi đặt cạnh nhau, như những bức tranh liên hoàn về diện mạo đời sống văn hoá tinh thần của Hà Nội. Lẽ cố nhiên, sự bắt đầu của Băng Sơn là đi từ đời sống vật chất, từ những hình ảnh thân quen như chuyện ăn, chuyện mặc, thú vui chơi ca hát, các buổi tiệc tùng, phong tục tập quán... Nhưng, tất cả đều được nhìn dưới góc độ văn hoá tinh thần, để tạo nên một thế giới hình tượng qua những trang văn giàu cảm xúc, mang vẻ đẹp đích thực của văn hoá Thăng Long, và rộng hơn, có thể nói là văn hoá dân tộc, từ trong cội nguồn của lịch sử. Ở Thú ăn chơi người Hà Nội (270 tr.), gồm 20 chuyện về ăn, 15 chuyện về chơi, 10 chuyện về thời tiết, khí hậu, hoa lá, cỏ cây... không chỉ có giá trị về văn chương mà còn có giá trị thực tiễn. Chẳng hạn, những trang viết về các món ăn như Bát nước chấm, Gia vị, Món luộc, Bánh đúc quê hương, Bánh dày bánh giò, không chỉ mang lại những hiệu ứng thẩm mỹ cho người đọc mà còn là những bài học về nữ công gia chánh, về công việc Nội trợ của người phụ nữ, đồng thời còn thể hiện tác giả là người có “tâm hồn ăn uống” một cách sành điệu: “Đang đói mà mất hứng, mà phí công đi xa, ăn không thấy ngon nữa, vì cháo gà, hỏi đến hạt tiêu, ông hàng cháo bảo không có, chỉ có tương ớt. Cháo gà mà ăn với tương ớt thì như thịt gà chấm với nước cáy vậy...”. Hương sắc bốn mùa (192 tr.), gồm có 33 chuyện, là sự tiếp tục mạch cảm xúc trong Thú ăn chơi người Hà Nội, nhưng có phần đi sâu vào những phong tục tập quán, những di tích văn hoá lịch sử, những lễ hội truyền thống dân gian nhiều hơn.

Cũng bắt đầu từ văn hoá vật chất như Nồi cơm, Bát cháo, Chén canh, Món xôi đến các di tích văn hoá, các mỹ tục như Ăn tết chơi tết, Hát văn, Cửa ô, Hàng Bạc, Phố Huế, Yên Phụ... Chuyện không chỉ có vậy, từ việc này ông có thể hướng người đọc liên tưởng đến việc khác, hình dung ra những điều đằm sâu, nén chặt bên trong. Nói đến Nồi cơm (4 tr.), nhưng thực ra ông còn nói về tấm lòng người mẹ, người phụ nữ Việt Nam, chỉ qua vài câu có thể hình dung ra tất cả những đức tính, những phẩm chất mà đôi khi những đúc kết thành khẩu hiệu làm người ta khó hình dung: “Những bát cơm đầy ân tình... Ăn trông nồi... Mẹ là người cầm chịch. Mẹ ăn nhỏ nhẻ, ngắm xem, quan sát những người thân yêu nhất của mình trong bữa ăn, giờ đông đủ nhất của cả gia đình...Thừa, thiếu, hay đủ, đều do mẹ. Có khi mẹ bảo tự nhiên hôm nay no, ăn ít đi. Có khi mẹ lại ăn cố...Chúng ta đâu biết tình mẹ bao la trong hành động con con ấy. Cũng có khi nồi cơm đã tơi rồi mà mẹ vẫn không ngơi tay cứ đánh mãi...Mẹ chờ cái bát không của ai đó sắp đưa cho mẹ.” Liệu ngày nay còn mấy ai dạy cho con gái mình những điều này và những bà mẹ trong tương lai mấy ai còn biết ăn phải trông nồi!

Ngàn mùa hoa (132 tr.), gồm 95 chuyện tập trung cho đối tượng độc giả ở lứa tuổi mới lớn với những cảm xúc trong lành, tươi non được ông mở rộng ra một không gian xa hơn về các làng quê phố huyện như Tiếng hát đồng quê, Cây đa làng, Cái tết làng, Đám cưới quê, Điếm canh đê, Ăn bánh chưng, Cánh bèo, Đò ngang, Đò dọc... những chuyện tưởng như không có gì và không còn gì để nói nữa, nhưng với ông, mỗi sự việc, mỗi đồ vật đều có một đời sống riêng, đều có thể trở thành đối tượng để đối thoại, giãi bày, và đã trở thành thế giới tâm hồn của nhà văn lung linh toả bóng. Cái không khí đặc sánh chất thơ trong Đêm ca trù với tiếng sênh phách gõ nhịp vào tâm hồn người đọc, làm trỗi dậy một không gian mơ hồ trong ký ức xa xôi: “Ta ngồi một mình trong đêm xuân nghe từng bước thời gian đang vần chuyển gấp gáp, vội vàng, vừa rón rén khoan thai e lệ, hồi âm lại hồn ta trong tiềm thức  trẻ thơ cũng được sống cùng không khí ẩn hiện tài tình như thế”.

Cũng chính những chuyện không có chuyện, không còn chuyện để nói đó, đã từng được nói đến trong cổ tích, trong truyền thuyết, chuyện kể dân gian, trong những trang văn đầy ắp hương hoa của những cây bút tài hoa một thời làm say lòng người đọc như Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài, nay cũng chỉ là những chuyện cũ ấy thôi, bỗng cựa quậy, sống dậy trong tâm hồn Băng Sơn, đòi lên tiếng, ngân lên bao điều mới mẻ, bất ngờ làm cháy lòng người đọc. Có lẽ, bởi cọc neo chính của dòng chảy đời sống văn hoá tinh thần của các nhà văn đều có chung cái cốt lõi, đó là tình yêu mảnh đất và con người Hà Nội nói riêng,Việt Nam nói chung, là truyền thống, là cốt cách tâm hồn dân tộc, những điều căn cốt làm nên bản sắc văn hoá của đất nước, đã thắm một màu Việt Nam, không hề bị tàn phai qua bao nỗi thăng trầm. Văn xuôi của Băng Sơn là văn xuôi trữ tình phong tục. Do đó, ông rất gần với Thạch Lam trong Hà Nội ba sáu phố phường, Vũ Bằng với Thương nhớ mười hai Miếng ngon Hà Nội, Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời. Trong trả lời phỏng vấn báo chí ông cũng từng thừa nhận là thích ba tác giả đàn anh này (2). Có người cho rằng, do ông ra đời ở xứ Đông, cách Hà Nội bốn mươi cây số, ở làng Cẩm Giàng, nơi có cái ga sầm uất, nơi sinh ra ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo và Thạch Lam, nên “trong văn Băng Sơn phảng phất cái trong sáng, đôn hậu, chan chứa tình người của Thạch Lam, cái đằm thắm của Hoàng Đạo, cái mơ màng của Nhất Linh”.(3)

Điều quan trọng hơn là cùng quan tâm về một vùng văn hoá, một miền quê sáng tác, nhưng mỗi người có một giọng điệu văn chương. Ở Băng Sơn, cũng có một chút lịch sử, một chút cổ tích hoặc truyền thuyết, chuyện kể dân gian, được thể hiện thông qua bút pháp tự sự thấm đẫm chất trữ tình, vừa ngắn gọn, súc tích, vừa chính xác đến từng chi tiết, mỗi đoản văn chỉ từ một đến năm trang sách, vừa phù hợp với tâm lý người đọc hiện đại, vừa phù hợp với mọi lứa tuổi. Chẳng hạn, Ngàn mùa hoa, gồm 95 đoản văn, gói gọn trong 132 trang sách, ông viết dành cho lứa tuổi học trò, khoảng từ mười hai đến mười sáu, mười bảy tuổi, là sự “nhắc nhở kín đáo của Băng Sơn với việc bảo tồn nền văn hoá dân tộc và làm phong phú tâm hồn cho lớp lớp trẻ thơ” (4), nhưng thật ra còn là những câu chuyện bổ ích cho những người làm cha làm mẹ, làm ông làm bà, khi đến với Ngàn mùa hoa như bắt gặp những tia hồi quang êm dịu trong ký ức một thời đã trôi xa, không ngừng phát hiện để có thể hiểu thêm về mình và con cháu mình. Đặc sắc nhất là những trang hồi ức kỷ niệm, là sự thật cuộc đời của nhân vật trữ tình, cũng chính là hình tượng của tác giả, của người thân như luôn đồng hành cùng với cuộc sống của dân tộc, của đất nước. Hãy nghe Băng Sơn giải thích về công việc của mình: “Có ai không trải qua niềm vui hay nỗi buồn khi con tàu chở mình bắt đầu chuyển bánh rời ga, rền rĩ hồi còi, sầm sập uốn mình lao đi...” Có thể tìm thấy rất nhiều đoạn văn hay và đẹp, đọc lên mọi người đều thấy sự hồn hậu, nhân ái, gần gũi với tâm hồn mình trong trang viết của ông.

Băng Sơn làm thơ, diễn kịch từ thuở còn là học sinh Tú tài những năm năm mươi của thế kỷ XX, tham gia đoàn nhạc kịch Tháng Mười chào mừng giải phóng Thủ đô, rồi có thơ in cùng thời với Ngô Văn Phú, Bùi Minh Quốc, Trần Nhật Lam, Vân Long, nhưng mãi đến năm 1984 ông mới có tập “thơ ba người” Nắng bên sông (chung với Nguyễn Xuân Thâm và Lư Giang, Nxb Tác phẩm mới), sau đó là tập Thơ hai người (chung với Nguyễn Hà, Nxb Văn hoá, 1992). Nhưng bắt đầu từ “bộ ba liên hoàn” với 173 chuyện về Hà Nội phố (1993) đến nay, ông liên tục cho ra mắt độc giả gần mười đầu sách: Con thuyền hoa (Kim Đồng, 1995), Nước Việt hồn tôi (Phụ nữ, 1995), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 2, Văn hoá, 1996), Bóng bảy màu (Kim Đồng, 1996), Nghìn năm còn lại (Hà Nội, 1996), Cái thú lang thang (Hà Nội, 1997), Đường vào Hà Nội (Hà Nội, 1997), Con chim gọi quả (Kim Đồng, 1997), Thú ăn chơi người Hà Nội (tập 3, Thanh niên, 1999) và còn chuẩn bị cho ra mắt cuốn Một trăm ngôi nhà Hà Nội... Quả là, mấy nghìn trang sách đã tạo ra một Băng Sơn đa tài nhưng cũng rất đa đoan,  hay như cách gọi của Vân Long là “nhiều nhà trong một nhà”: nhà văn, nhà thơ, nhà viết kịch (tác giả mười vở kịch thơ đã được công diễn và nhiều vở phóng tác từ tác phẩm nước ngoài như Những người khốn khổ, Ngài tổng thống, Tristant và Yseul...), nhà diễn kịch, nhà báo (phóng viên các báo Thuỷ sản, Độc lập...), nhà Hà Nội học, nhà chơi đào thế, nhà... ăn chơi học! Phải ăn và chơi như thế nào mới thấm đẫm vào trang văn mượt mà, sâu sắc và cũng sành điệu đến mức ấy chứ! Trong các nhà ấy, nổi bật nhất là nhà văn, nhà tản văn phong tục đặc sánh trữ tình về văn hoá Hà Nội. Với tôi, có chút thiên vị của người dân ngụ cư, gần gũi và ấn tượng lâu bền nhất, là những trang ông viết về  Huế, có liên quan đến Huế, như Phố Huế, Nguyễn Bính với cố đô Huế, Bến Ngự- hồn ca...
            P.P.P

(nguồn: TCSH số 212 - 10 - 2006)

 



-------------
(1), (2), Trả lời phỏng vấn báo Thừa Thiên - Huế  30. 4. 1997
(3), Nguyễn Kế Nghiệp, Băng Sơn- cây bút tài hoa của đất Hà Thành, Hội thảo Tuỳ bút của Băng Sơn về Hà Nội, ngày 23. 4. 1996 tại Thư viện Hà Nội.
(4), Hoàng Quốc Hải, Băng Sơn- từ Ngàn mùa hoa qua Hương sắc bốn mùa đến Nước Việt hồn tôi, htđd.


Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

  • VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.

  • HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).

  • THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.

  • NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...

  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).