MAI VĂN HOAN
Lẽ ra tôi không viết bài này. Thiết nghĩ văn chương thiên biến, vạn hóa, mỗi người hiểu một cách là chuyện bình thường. Tốt nhất là nên tôn trọng cách nghĩ, cách cảm thụ của người khác.
"Hoàng Cúc - người tình đầu tiên của ông"
Còn mình, mình có cách cảm thụ riêng của mình. Cái gì mình cảm thấy hay, đúng thì mình theo, còn cái gì mình không đồng tình thì thôi. Tranh cải chỉ mất thời gian vô ích. Và tôi cũng đã định như vậy với bài viết “Đây thôn Vĩ Dạ” - một tiếng thở dài đáng quý” của nhà giáo Lê Đình Mai. Nhưng sao tôi cứ thấy không đành! Không đành với Hàn Mặc Tử, không đành với bà Hoàng Cúc, không đành với bạn đồng nghiệp, với độc giả gần xa mến mộ Hàn Mặc Tử.
Trước hết cũng cần nói thực rằng ở Huế cũng như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và nhiều nơi khác vẫn tồn tại khá nhiều những cô gái “đày thân giang hồ”. Thân phận của những kẻ bất hạnh ấy đã được khá nhiều văn sĩ xưa nay quan tâm. Nhưng nếu gán cho “Đây thôn Vĩ Dạ” là tiếng thở dài về kiếp sống ấy, về những cô gái “đày thân giang hồ” thì thật oan cho Hàn Mặc Tử, oan cho Hoàng Cúc - người tình đầu tiên của ông (dù chỉ là người tình trong mộng mà thôi) và oan cho cả thôn Vĩ Dạ nữa. Tôi tin rằng nếu nhà giáo Lê Đình Mai có một chút hiểu biết về xuất xứ bài thơ, một chút hiểu biết về cuộc đời Hàn Mặc Tử và một chút hiểu biết về thôn Vĩ, chắc nhà giáo sẽ không tán bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” theo cái hướng tưởng là rất “hiện thực” rất “nhân văn” nhưng chính lại làm buồn lòng bao nhiêu bạn đọc gần xa yêu mến Hàn Mặc Tử. Chung quanh bài thơ này đã có nhiều lời bình, ở đây chỉ nói thêm về Hoàng Cúc và qua đó ngõ hầu giúp Lê Đình Mai và bạn đọc hiểu rõ hơn bài thơ này của Hàn Mặc Tử.
Theo hồi ký Quách Tấn - bạn thân và người hiểu biết nhiều về Hàn Mặc Tử thì thời Hoàng Cúc vào khoảng mười lăm mười sáu tuổi là một cô gái không đẹp lắm nhưng có duyên. Hoàng Cúc có học lại hết sức nết na, thùy mị - chính điều này đã làm say lòng thi sĩ. Hai người ở chung một lối. Thi sĩ làm thơ về Hoàng Cúc với nỗi khao khát thầm lặng. Nhưng chỉ thầm lặng thôi. Hoàng Cúc là một cô gái con nhà gia giáo, nề nếp, bản lĩnh lại hết sức kín đáo. Giữa hai người lúc đó lại có những vực thẳm khó lòng vượt qua. Bố Hoàng Cúc là quan còn thi sĩ chỉ là anh chàng đạc điền nghèo đang có nguy cơ mất việc. Gia đình Hoàng Cúc theo đạo Phật, còn gia đình Hàn Mặc Tử theo Thiên chúa giáo. Có lẽ vì những lý do ấy mà thi sĩ chần chừ không dám bày tỏ tình cảm của mình với Hoàng Cúc. Hàn Mặc Tử chỉ nhờ thơ nói hộ lòng mình. Với Hàn Mặc Tử, Hoàng Cúc lúc ấy là một thế giới đầy bí ẩn, vì Cúc chưa hé một lời với Tử. Khi Hàn Mặc Tử lặn lội vào Sài Gòn kiếm kế sinh nhai trở về thì không thấy Hoàng Cúc đâu nữa. Cô đã theo cha ra Huế. Thi sĩ rất buồn. Và theo Quách Tấn, Hàn Mặc Tử coi việc Hoàng Cúc rời Quy Nhơn như là đi lấy chồng: “Ngày mai tôi bỏ làm thi sĩ. Em lấy chồng rồi hết ước mơ!” Thực ra, Hoàng Cúc không lấy ai cả. Tôi được những người thân của bà Hoàng Cúc kể lại rằng: Thời ấy, rất nhiều đám mối mai, dạm hỏi, Hoàng Cúc đều chối từ, chẳng hiểu nguyên do vì đâu. Một hôm, Hoàng Cúc nhận được tin: Hàn Mặc Tử bị bệnh phong – một trong “tứ chứng nan y” thời ấy. Hoàng Cúc rất thương Tử, cô gửi vào Quy Nhơn cho Tử một phiến phong cảnh với lời hỏi thăm sức khỏe. Nhận được quà tặng của Hoàng Cúc, Hàn Mặc Tử run lên vì xúc động. Người con gái đầy bí ẩn ấy vừa hé ra một chút ánh sáng ở cõi lòng. Vâng! Chỉ một chút thôi, một lời hỏi thăm sức khỏe thôi. Nhưng với Hàn Mặc Tử nó quí giá biết chừng nào! Hàn Mặc Tử đã viết bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” để đáp lại tấm lòng của Hoàng Cúc.
Sau này, Hoàng Cúc dạy nữ công gia chánh ở trường Đồng Khánh rồi hoạt động ở Hội Phật tử miền Nam. Bà “tu tại gia” và sống độc thân ở Vĩ Dạ cho đến khi mất. Tôi cũng có mặt trong đám tang của bà. Đó là ngày 15 tháng 2 năm 1989 (tức ngày mồng mười, tháng giêng, âm lịch). Có lẽ đó là một trong những đám tang lớn nhất ở Huế gần đây mà tôi được biết. Đoàn xe tang nối dài từ Đập Đá đến Trường Quốc Học. Quanh xe tang đính đầy câu đối ca ngợi phẩm hạnh của bà. Tôi còn nhìn thấy nhiều bài thơ của các nhà sư họa lại bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Việc bà Hoàng Cúc có yêu Hàn Mặc Tử không và vì sao bà không lấy chồng – chưa ai biết cả! Nhưng điều chắc chắn là Hàn Mặc Tử có một thời rất yêu Hoàng Cúc và bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là bài thơ thi sĩ tặng Hoàng Cúc. Có thể là Hoàng Cúc không yêu Hàn Mặc Tử nhưng cô trân trọng mối tình chân thành của Tử, trân trọng tài thơ của Hàn Mặc Tử. Với Hàn Mặc Tử chừng ấy là quá đủ rồi! Có hiểu tình cảnh như vậy mới hiểu thấu nỗi niềm của thi sĩ giấu trong những câu:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Mới hiểu thấu nỗi khao khát của Hàn Mặc Tử:
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?
Và nhất là khổ thơ cuối: vừa thực vừa hư, vừa say vừa tỉnh vừa huyền ảo (có một chút gì như ma quái rất Hàn Mặc Tử) lại vừa chua chát, đau đớn một cách chân thành:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Hoàng Cúc trước sau vẫn là một “ẩn số” đối với Hàn Mặc Tử, nỗi băn khoăn day dứt của Tử vì vậy hết sức chính đáng.
Tôi chưa được biết Gia khuất ở kinh đô Thăng Long cổ xưa, nhưng nếu Gia khuất là cái “chốn ấy” thì rõ ràng không thể so sánh với thôn Vĩ được. Thôn Vĩ trước đây cũng như bây giờ vốn nổi tiếng là nơi phong cảnh hữu tình với những vườn cau, hàng trúc, với những “hiên thơ của những ông Hoàng”... Tôi đọc mà ớn lạnh khi Lê Đình Mai quả quyết: “Ở chốn dâm ô này (tức là thôn Vĩ) những gì đẹp đẽ nhất, cao quý nhất của con người đều bị sương khói truy hoan lu mờ hết, hoen ố hết”. Và cô gái thôn Vĩ biến thành kỹ nữ, “thuyền trăng” kia cũng biến thành con thuyền chở khách làng chơi. Người viết còn tán thêm: “Hỡi du khách có đến thì mau lên chứ, đêm sẽ tàn mất thôi!” Một câu thơ đẹp như thế, thơ mộng như thế, khát khao như thế vào tay một “khách làng chơi” đã trở nên rách nát, hoen ố như cuộc đời kỹ nữ vậy!
Lỗi này do đâu? Theo tôi, đó là kết quả của lối suy diễn vô căn cứ vì thiếu những hiểu biết cần thiết về cuộc đời tác giả, về xuất xứ bài thơ. Và thiếu cả sự rung cảm thẩm mỹ. Lâu nay, ta vẫn có thói quen giới thiệu tác giả chỉ là chú trọng những hoạt động xã hội của họ. Họ thuộc giai cấp nào? Làm đến cấp bậc gì? Hội viên hay không? Mà quên mất đời tư của họ – những quãng đời tư có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành tác phẩm. Tôi tin rằng nếu Hàn Mặc Tử không có cuộc tình thầm lặng, trắc trở với Hoàng Cúc chưa chắc chúng ta đã có “Đây thôn Vĩ Dạ” – giàu sức chứa đựng nội tâm đến như thế. Xưa Nguyễn Du sáng tác “long thành cầm giả ca” có kèm theo lời dẫn khá dài, chắc nhà thơ sợ hậu thế có thể hiểu sai lệch ý thơ của mình. Với những bài kiểu như “Đây thôn Vĩ Dạ” khi đưa vào chương trình để dạy và học, theo tôi cũng nên kèm theo lời dẫn để tránh những suy diễn đáng tiếc như bài viết của Lê Đình Mai.
Ngoài ra, theo tôi, bài viết của nhà giáo Lê Đình Mai còn là kết quả của việc phân tích tác phẩm theo lối suy diễn chủ quan. Tác phẩm nào người phân tích cũng cố qui về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Đã đành đây là hai yếu tố quan trọng làm nên giá trị tác phẩm, nhưng nó đâu phải là tất cả. Có một số tác phẩm thắp đèn soi cũng không thể tìm thấy đâu là hiện thực xã hội, đâu là tấm lòng nhân đạo cao cả của tác giả nhưng vẫn cứ hay, vẫn cứ sống mãi với thời gian. Cái hay của văn chương nhiều hình nhiều vẻ, đâu chỉ có vài ba giá trị được khuôn sẵn rồi cứ thế ép các tác phẩm cổ kim đông tây vào những giá trị ấy. “Đây thôn Vĩ Dạ” thì có liên quan gì đến người kỹ nữ, khách làng chơi, thế mà nhà giáo kia cố gán cho nó để lấy ra được giá trị hiện thực: phản ánh cuộc sống giang hồ và giá trị nhân đạo: “một tiếng thở dài đáng quí!” Tôi tin rằng nằm trên Ghềnh Ráng nếu Hàn Mặc Tử biết được chuyện này chắc thi sĩ khổ tâm lắm. Khổ tâm vì nghe những lời khen quá ư sống sượng, khổ tâm vì người ta hiểu quá lệch bài thơ của mình. Thà cứ để thi sĩ ngủ yên còn hơn là đánh thức Hàn Mặc Tử dậy để nghe những lời suy diễn quá ư dung tục làm tan vỡ giấc mộng ngàn năm của thi sĩ.
Huế, tháng Giêng năm 1990
M.V.H
(TCSH41/02&03-1990)
--------------
(*) Nhân đọc bài thơ “Đây thôn vĩ dạ” - một tiếng thở dài đáng quí của Lê Đình Mai, báo “Giáo viên nhân dân” số đặc biệt chuyên đề đầu năm, tháng 1-1990.
NGÔ MINH
Trong các tập thơ xuất bản ở Huế trong mấy năm lại đây, "Ngọn gió đi tìm" là một trong số rất ít tập được đọc giả mến mộ, có thể nói được rằng: đó là một tập thơ hay! Tập thơ tạo được sự cuốn hút, sự nhập cuộc của người đọc.
“Với Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, GS Lê Thành Khôi đã trình bày lịch sử không phải lịch sử chính trị, mà là lịch sử của con người”, GS Phan Huy Lê nói về cuốn sử quý vừa ra mắt tại VN sau nhiều năm ở nước ngoài.
Sự nát tan của các giá trị tinh thần trong đời sống hiện đại được Trần Nhã Thụy đưa vào tiểu thuyết mới bằng văn phong hài hước, chua chát.
Cuốn sách "Trăm năm trong cõi" của giáo sư Phong Lê viết về 23 tác giả khai mở và hoàn thiện diện mạo văn học hiện đại Việt Nam.
Trên tạp chí Kiến thức ngày nay số 839 ra ngày 01-12-2013 có đăng bài Kỷ niệm về một bài thơ & một câu hỏi chưa lời giải đáp của Nguyễn Cẩm Xuyên. Vấn đề nêu lên rất thú vị: đó là cách hiểu chữ giá trong bài thơ Cảnh nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Bài thơ này trong nguyên văn chữ Nôm không có tên gọi. Những người soạn giáo khoa đã căn cứ vào nội dung đặt tên cho bài thơ là Cảnh nhàn và đã được đưa vào giảng dạy trong nhà trường trước đây.
Ký ức về những tháng ngày mải miết hành quân trên đất Campuchia, những phút giây nén lòng nhớ về quê hương, gia đình… vẫn chưa bao giờ nhạt phai trong tâm thức những người cựu chiến binh Đoàn 367 đặc công-biệt động trong kháng chiến chống Mỹ năm xưa.
LÊ VIỄN PHƯƠNG
(Nhân đọc Thơ Việt Nam hiện đại, tiến trình & hiện tượng của Nguyễn Đăng Điệp, Nxb. Văn học, 2014)
Cuốn Minh triết Việt trong văn minh Đông phương của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh nhằm mục đích góp phần làm sáng tỏ cội nguồn văn hiến của dân tộc Việt qua sự phân tích những di sản văn hóa truyền thống bằng các phương pháp mang tính khoa học.
17 chân dung các nhà học thuật Việt Nam thế kỷ 19 và 20 qua các tiểu luận nghiên cứu ẩn dưới dạng thức tùy bút của Đỗ Lai Thúy đủ sức vẫy vào nhận thức người đọc hôm nay những vỡ lẽ mới.
Giáo sư hy vọng độc giả cũng cảm thấy như mình khi đọc "Lòng người mênh mang" bởi các trang viết chứa đựng những sự thật không thể chối cãi.
Tác giả Phạm Xuân Hiếu sử dụng vốn sống, kiến thức về văn hóa, cổ vật khi viết những truyện ngắn trong sách "Cây đèn gia bảo".
LÊ HUỲNH LÂM
Có một bạn trẻ hỏi rằng: làm thế nào để viết thật hay? Tôi nói như phản xạ, trước hết tác giả phải có đời sống văn chương.
NGỌC THANH
Có một nhà thơ, nhà hoạt động cách mạng đầy nhân cách đi ra từ Huế song rất ít người ở Huế biết tới, đó là Trần Hoài Quang - nguyên Trung đoàn phó và chính trị viên Trung đoàn Nguyễn Thiện Thuật (E95), nguyên Phó ban Tuyên huấn Thừa Thiên, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Tuyên Quang và Bí thư Tỉnh ủy Hà Tuyên… Ông hiện có một người con trai đang ở Huế.
“Như vậy đó, hiện đại và hoang sơ, bí ẩn và cởi mở, giàu có và khó nghèo chen lẫn, đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện lên trước mắt ta, ngồn ngộn sức sống”. Nhà báo, nhà văn Phan Quang đã thốt lên như vậy cách đây gần 40 năm, khi ông lần đầu đặt chân đến vùng đồng bằng châu thổ. Những điều ông viết về ĐBSCL ngày ấy - bây giờ còn tươi mới tính thời sự, lan tỏa và trường tồn với thời gian.
ĐẶNG HUY GIANG
Thói quen, nói cho cùng, là sản phẩm của quá khứ, là những gì lặp đi lặp lại, không dễ từ bỏ.
Hơn cả một nhà văn, Tô Hoài đã, đang và sẽ luôn là người bạn đường thân thiết của độc giả thuộc mọi lứa tuổi...
BÍCH THU
(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)
Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Phát hành tập thơ "Khi chúng ta già" sau scandal với Phạm Hồng Phước, tác giả Nguyễn Thị Việt Hà khẳng định thơ mình không cần ăn theo sự kiện gì.
Tác giả Tử Đinh Hương thực hiện bộ sách "Biểu tượng" với mong muốn khám phá, lưu giữ và khuyến khích trẻ nhỏ quan tâm hơn đến thế giới xung quanh.