Có một người phụ nữ xứ Huế sinh sống và giảng dạy tại CHLB Đức nhưng luôn dành tình trang trọng chiếc áo dài Việt Nam. Bà là TS triết học Thái Kim Lan, với bà, áo dài làm nên một phần bản sắc vẻ đẹp phụ nữ Việt Nam.
S Thái Kim Lan vè thăm lại trường nữ sinh Đồng Khánh xưa (Huế), nay là trường THPT Hai Bà Trưng. Ảnh: Ngọc Hiển
Quỳ gối hôn tà áo dài Việt
Tôi bắt đầu mặc áo dài năm lên 10 tuổi, chiếc áo mới mẹ may vào dịp Tết như đánh dấu sự bắt đầu hình thành vóc dáng một con người. Từ đó tà áo dài theo tôi suốt cả thời thiếu nữ, áo dài và tôi hầu như gắn bó keo sơn.
Năm vào trường Nữ trung học Đồng Khánh, mẹ may cho tôi bộ áo dài đồng phục bằng vải quyến màu trắng. Khi choàng lên mình tà áo dài, tôi cảm thấy hãnh diện bởi mình trở nên chững chạc hơn, trở thành con gái hơn.
Năm tháng làm quen, áo dài đối tôi thời ấy là bộ trang phục Việt Nam cho phụ nữ Việt Nam, dần dà như đồng hóa với bản sắc Việt Nam, với quê hương Việt Nam, tự nhiên như mặt trời buổi sáng và sao trăng buổi chiều. Vô hình trung “áo dài” đã uốn nắn một phần cung cách đi đứng, phong cách sống của người phụ nữ Việt Nam. Cho đến thế hệ chúng tôi áo dài là quốc phục phụ nữ, tà áo dài gắn bó với nếp sống gia phong của mỗi gia đình và hầu như là lối ăn mặc duy nhất cho mọi phụ nữ Việt Nam. Nữ sinh đi học trong chiếc áo dài là điều tự nhiên chứ không phải bị bắt buộc hay qui định như ngày nay
Năm 1965, khi tôi sang Đức du học, "gia tài" tôi mang theo là sáu bộ áo dài bằng lụa nội hóa. Ngày khai giảng đầu tiên, tôi cùng năm nữ giáo viên khác cùng du học đến trình diện ở trường trong những chiếc áo dài. Những đồng nghiệp ngoại quốc dự khai giảng ngỡ ngàng khi thấy trang phục của chúng tôi. Họ trầm trồ trước vẻ uyển chuyển thướt tha và ngợi khen đây là một trang phục rất lạ, đẹp, lịch sự và thích hợp với dáng dấp mảnh khảnh của phụ nữ Á Đông. Trong khung cảnh lạ ở xứ người, giữa những gương mặt không quen, mặc chiếc áo dài, tôi có cảm giác mình tự tin và vững chãi. Hơn một lần, tôi nhận thấy chiếc áo dài thân thiết như chính quê hương.
So với những lúc ăn vận trang phục Tây phương ngượng nghịu, phụ nữ Việt dù mốt đến đâu cũng không thể đẹp như trong chiếc áo dài, bởi vì nó phù hợp với cử chỉ, dáng dấp, thể hình phụ nữ Việt, nó làm nổi bật ngoài vẻ duyên dáng đặc biệt. Tôi còn nhớ, khi nhìn sang những người bạn gái trong chiếc áo dài lịch sự và trang trọng, tôi càng ý thức điều đó nhiều hơn, và vui làm sao khi mọi cặp mắt đều chú ý đến họ như những bông hoa hiếm đẹp giữa trăm nghìn người xa lạ.
Trong khung cảnh lạ ở xứ người, giữa những gương mặt không quen, mặc chiếc áo dài, tôi có cảm giác mình tự tin và vững chãi. Hơn một lần, tôi nhận thấy chiếc áo dài thân thiết như chính quê hương… Cho tới bây giờ, sau nhiều năm định cư ở Đức, tôi vẫn chọn màu áo tím để mặc như tôi vẫn chọn thời con gái; trong màu áo, tôi rèn mình thuần thục hơn, nhũn nhặn hơn.
Thời gian ở Đức, khi xuất hiện trong chiếc áo dài, không ít người – mặc dù người Đức rất kín đáo, không sỗ sàng - đến nâng tà áo dài và tỏ lời trầm trồ. Thậm chí, có người còn quỳ xuống nâng tà áo và hôn lên tà áo để thể hiện sự trân trọng, ngưỡng mộ. Mùa đông ở Đức rất lạnh nên phải thay đổi trang phục. Sáu bộ áo dài được cất vào vali, nhưng mỗi lần mở ra tôi lại tìm thấy mình ở trong đó. Lúc tôi giảng dạy triết học tại Đại học Ludwig – Maximilian, buổi đầu khai giảng tôi mặc áo dài, đồng nghiệp và sinh viên ai cũng quay nhìn, kín đáo với cặp mắt ngưỡng mộ. Dĩ nhiên ngoài món ăn tinh thần mà họ nhận được từ những bài giảng, thì cô giáo của họ còn đặc biệt hơn trong chiếc áo dài. Thỉnh thoảng không thấy tôi mang áo dài, những đồng nghiệp của tôi lại đề nghị tôi mang để xin... ngắm. Năm 2000, tôi đi dự đại hội quốc tế ở Hàn Quốc, lúc đó tôi mang một chiếc áo dài cổ điển. Mọi người lại ngạc nhiên không ngờ chiếc áo dài Việt rất lịch sự, vừa thanh nhã cao sang vừa yểu điệu thu hút so với áo truyền thống của Hàn Quốc. Chiếc áo dài đó là áo gấm thêu, lót trong lớp lụa tơ màu đỏ, vải ngoài the thêu bằng sợi bạc và vàng hình loan phượng, nhật nguyệt. Lối cắt thời xưa với năm tà, rộng tà chứ không chít eo. Bây giờ chiếc áo dài phá cách nhiều. Áo dài kiểu xưa phủ vạt rộng, mặc dù không eo nhưng nhờ bờ vai và cánh tay vừa khít nên vẫn nhấn mạnh vóc dáng thanh tao mảnh khảnh của người phụ nữ Việt.
Áo dài tôn vẻ đẹp phụ nữ Việt
Con gái Huế rất chuộng tà áo dài tím. Đã có một thời nữ sinh Đồng Khánh thế hệ trước tôi đồng phục áo dài màu tím, nên trường Đồng Khánh thời ấy còn được gọi là trường áo tím, đến thế hệ chúng tôi, trường cho đồng phục áo dài màu trắng, nhưng áo tím vẫn được ưa chuộng, vì màu áo mang tính chất của Huế đẹp và thơ, như từ thời xưa ấy, cho nên màu áo này còn được gọi là tím Huế. Nét đẹp của Huế chuộng sự thanh nhã, kín đáo, dung dị không sặc sỡ chói lóa. Màu tím đã in sâu vào tâm khảm của người con gái Huế do chính bầu trời, dòng sông, rặng núi, không gian cổ xưa un đúc nên. Thành phố Huế là mảnh đất kinh kỳ trang trọng, nhưng sự rực rỡ không phải là sự phô trương bên ngoài mà hướng vào bên trong. Tà áo dài tím kín đáo giấu sắc đẹp rực rỡ bên ngoài, làm giảm gam màu chói lói, hướng người ta chú ý đến cung cách đức hạnh hay tinh thần bên trong, mà đó cũng là một vẻ đẹp khác của người phụ nữ nói chung, nói riêng là sắc đẹp người con gái Huế. Cho tới bây giờ, sau nhiều năm định cư ở Đức, tôi vẫn chọn màu áo tím để mặc như tôi vẫn chọn thời con gái; trong màu áo, tôi rèn mình thuần thục hơn, nhũn nhặn hơn.
Điều làm tôi luyến tiếc nhất là hình ảnh tà áo dài đã mất đi trên đường phố. Hình ảnh những thiếu nữ trong tà áo dài tím, áo trắng uyển chuyển, thấp thoáng trên những con đường nên thơ của Huế, khắp nơi trên phố xá thị thành của đất nước đã hằn sâu trong ký ức của tôi. Những hình ảnh đó là nét tiêu biểu độc nhất của quê hương Việt Nam nay không còn nữa. Ngày nay, áo dài chỉ được mặc để tham dự hay xuất hiện trong những sự kiện đặc biệt, thi hoa hậu hay biểu diễn thời trang. Thế hệ tôi, tà áo dài hiện diện trong đời sống thường nhật, phụ nữ từ người bình dân buôn thúng bán bưng cho đến người cao sang đều… “bình đẳng” trong chiếc áo dài, bình đẳng trong vẻ đẹp cũng như tính cách con người, dù chất lượng vải vóc khác nhau, nhưng tính cách Việt vẫn là một, cho nên áo dài hoàn toàn gắn bó với đời sống của mỗi người. Bây giờ chúng ta có nhiều chọn lựa trang phục hơn, nhiều mốt thời trang hơn và sau một thời gian, chiếc áo dài vắng bóng trên đường phố, tâm lý con người hôm nay cũng đã khác, chiếc áo dài trở nên xa lạ, thậm chí những người nghèo còn không biết đến áo dài. Áo dài như chỉ dành cho một đẳng cấp nào đó, như một thứ thời trang đặc biệt cho lễ lượt, chính điều ấy đã ly khai chiếc áo dài ra khỏi nhịp sống thường nhật vốn có. Nhiều người cho rằng chiếc áo dài bất tiện, gò bó, nhưng thời của chúng tôi, dù nắng hay mưa, chúng tôi vẫn chạy nhảy, đi xe đạp, chơi thể thao trong tà áo dài. Người xưa đã nghiên cứu khí hậu, thời tiết và phong cảnh ở đây để tạo ra trang phục áo dài. Nó vừa thích hợp với sự nhịp nhàng thể xác, vừa che chở con người trong cơn nắng gắt hay mưa dầm, bụi bặm trên đường phố, vừa chống chọi với khí hậu lại tô điểm dáng dấp con người Việt. Chính tà áo dài nền nã đã tôn lên vẻ đẹp phụ nữ Việt.
Trò chuyện giữa các thế hệ nữ sinh trường Đồng Khánh xưa và nay
Thế hệ tôi, tà áo dài hiện diện trong đời sống thường nhật, phụ nữ từ người bình dân buôn thúng bán bưng cho đến người cao sang đều… “bình đẳng” trong chiếc áo dài, bình đẳng trong vẻ đẹp cũng như tính cách con người; dù chất lượng vải vóc khác nhau, nhưng tính cách Việt vẫn là một, cho nên áo dài hoàn toàn gắn bó với đời sống của mỗi người.
Khi lựa chọn trang phục, người mặc nên biết vẻ đẹp của mình ở đâu. Chính tà áo dài nền nã đã tôn lên vẻ đẹp phụ nữ Việt. Áo dài đi theo tính cách, đức hạnh của người con gái nên mặc áo dài tím mà mình trang điểm lòe loẹt thì không đẹp. Người ta có thể mặc áo dài tím với quần màu, nhưng theo tôi quần trắng đi với tà áo dài tím thanh nhã đẹp, chứ không đồng bóng xanh đỏ tím vàng. Trang sức đi theo áo dài và cách trang điểm và kiểu tóc cũng phải có chừng mực. Con gái hiện nay bỏ mất mái tóc thề mà tỉa tóc theo đuôi mực kiểu Hàn Quốc. Ngày trước con gái cắt tóc ngang bằng, làn tóc đen óng ả mà Trịnh Công Sơn có lần gọi “tóc em từng sợi nhỏ rớt xuống đời làm sóng lênh đênh”…
Tôi mong làm sao bên cạnh những cửa hàng áo dài sặc sỡ đủ kiểu, thêu thùa diêm dúa, sẽ có những tiệm áo dài tạo “mốt” thích hợp cho phụ nữ trẻ bình dân. Chính những chiếc áo dài bằng hàng vải đơn thuần, thích hợp với môi trường và môi sinh, những loại hàng sợi thiên nhiên như những chiếc áo của người miền núi dệt lại là những chiếc áo dài có thể tạo nên một vẻ đẹp dung dị khác hơn với phong trào thời trang hiện nay, còn hơn những chiếc áo dài bằng sợi nhân tạo, phi bóng có hại cho sức khỏe khi trời nóng nực. Ngược lại, vải dệt bằng sợi thiên nhiên từ bông gòn, sợi gai, lụa, tơ thô, rất phù hợp cho làn da, lại dung dưỡng sức khỏe thể xác, màu sắc tự nhiên tạo nên hòa điệu tâm hồn. Những chiếc áo dài ấy cho thấy áo dài có thể có được mà không cần phung phí tiền thêu rồng phượng, chúng cũng tiện lợi không thua những váy đầm, quần jeans, mà hơn thế, chúng tôn tạo vẻ đẹp của mọi giới phụ nữ trên đất nước của chính mình. Những người phụ nữ Việt, kể cả những người lam lũ, khi khoác trên mình chiếc áo dài, đều toát lên những vẻ đẹp hồn nhiên đáng trân trọng, đó chính là hồn phách dân tộc, là nét đẹp Việt Nam.
Nữ sinh Huế qua cầu Trường Tiền
Theo khamphahue.com.vn
PHẠM THỊ ANH NGA
Giới văn học nghệ thuật trong Nam ngoài Bắc cũng như những người từng là học trò của ông thường nói với nhau, tưởng như đùa nhưng lại rất thật, rằng đến Huế mà chưa ghé thăm ông thì coi như là chưa đến Huế, gì thì gì vẫn cứ... thiếu.
LÊ HUỲNH LÂM
Văn chương như một món ăn tinh thần cho mọi người. Đối với những người đam mê, các tác phẩm văn chương như hơi thở, như máu thịt. Ngoài việc là món ăn tinh thần, văn chương như những con đường vươn ra dẫn dắt để nối kết, giao thoa giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa vùng miền văn hóa này với vùng miền văn hóa khác.
LÊ VĂN LÂN
Trong phong trào đô thị Huế, từ phong trào hòa bình 1954 - 1955, phong trào Phật giáo ở Huế những năm 1963 - 1964 đến phong trào li khai ở Huế 1966, có một nhân vật khi nhắc đến hầu như ai cũng biết - đó là bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên Giám đốc Bệnh viện Trung ương Huế, nguyên Khoa trưởng Đại học Y khoa Huế.
ĐỖ MINH ĐIỀN
Ngày 01/10/2012, một tin vui không chỉ dành riêng cho Huế khi bộ Cửu vị thần công là 1 trong 30 hiện vật/nhóm hiện vật đã được công nhận là Bảo vật Quốc gia Việt Nam.
NGUYỄN MINH VỸ
Hồi ký
Thú thật với các bạn Tạp chí Sông Hương và những ai cùng quê là trước Cách mạng Tháng 8-1945 tôi có phần nào "mặc cảm" vì cái gốc Thừa Thiên của mình.
LƯƠNG AN
Vào đầu nửa sau thế kỷ 19, tại Phú Xuân (tức Huế bây giờ), giữa lúc tiếng tăm hai anh em Miên Thẩm và Miên Trinh đang lừng lẫy, một sự kiện bỗng thu hút sự chú ý của giới thơ kinh thành: sự xuất hiện gần như đồng thời của Tam Khanh(1), ba nhà thơ nữ người hoàng tộc, trong đó, Thúc Khanh được ca ngợi nhiều hơn cả.
(SHO) Tiến sĩ Lê văn Hảo quê ở Huế, con trai ông Lê Văn Tập - một đại phú gia ở miền Trung, du học Pháp (1953), đỗ Tiến sĩ Đệ Tam cấp ngành Dân tộc học (1961) tại Đại học Sorbonne, làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (Centre national de la recherche scientifique) một thời gian rồi về nước (1965) giảng dạy Dân tộc học và Văn minh Việt Nam tại các Đại học Văn khòa Huế, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
NGUYỄN HỒNG TRÂN
Như chúng ta đã biết qua sách sử, cựu Hoàng đế Bảo Đại có 2 người vợ được hôn thú chính thức. Đó là bà Nguyễn Hữu Thị Lan (tức Nam Phương Hoàng hậu) và bà người Pháp là Monique Marie Eugene Baudot.
LÊ VĂN LÂN
Những thập niên cuối thế kỷ XX, có một nhân vật lúc ẩn lúc hiện như rồng trong mây, như kình ngư giữa đại dương, có mặt ở các thời điểm lịch sử, có tác động đến phong trào giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế nói chung và phong trào đô thị Huế nói riêng.
PHAN THUẬN AN
"Hôm nay, Ngài trở về trong lòng đất mẹ thân yêu, trở về giữa tất cả đồng bào con Hồng cháu Lạc, trở về bên núi Ngự, sông Hương...
"Chúng ta thành kính cầu cho nhà vua đời đời yên nghỉ.
"Lòng yêu nước của nhà vua còn sáng mãi với sử xanh".
NGUYỄN ĐẮC XUÂN
LTS: Thời Pháp thuộc cũng như thời tạm chiếm, những “thượng khách” đến du lịch Huế thường được bà công chúa Lương Linh (con gái thứ 19 của vua Thành Thái và là em út của vua Duy Tân) hướng dẫn.
LÊ TIẾN DŨNG
Một ngày cuối thu tháng Mười năm 1965 tôi nghe qua Đài Tiếng nói Việt Nam một tin quan trọng: Hội Văn nghệ Giải phóng công bố Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Đình Chiểu.
ĐOÀN XANH
Nhà thơ, nhà báo Thúc Tề bị Pháp thủ tiêu khi mới 30 tuổi. Gần 50 năm sau, bí mật được phát lộ, Nhà nước đã truy tặng ông danh hiệu Liệt sĩ với bằng Tổ quốc ghi công.
Ở tuổi 75, nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân vẫn miệt mài bên chiếc máy tính để làm việc mỗi ngày. Ông luôn mang theo bên người một chiếc máy ghi âm, loại dùng bằng băng cassette, ông có thói quen ghi lại bất cứ buổi làm việc nào với các phóng viên báo, đài... Đón tôi trong con hẻm nhỏ dẫn vào ngôi nhà ở một quận gần trung tâm Sài Gòn, ông đội chiếc mũ kiểu Huế và những tiếng “răng, ni, nớ” rất Huế của ông mang lại cho tôi sự gần gũi để bắt đầu buổi trò chuyện.
Nhà văn ÁNH HƯỜNG (thực hiện)
Ngày 9/6/2014, nhà báo Nguyễn Khoa Bội Lan đã vĩnh biệt chúng ta, hưởng thượng thượng thọ 105 tuổi
Tôi lặng lẽ đi tìm về nhà "O Thương trống” mà trong lòng có cảm giác như một đứa con đi xa lâu ngày trở về với mẹ để được nghe mẹ kể chuyện đời, chuyện nghề.
Có lẽ cho đến nay, ông Lê Văn Kinh là nghệ nhân làng nghề truyền thống lập nhiều kỷ lục nhất VN. Ông đã lập kỷ lục về bộ tranh thêu bài thơ "Cáo tật thị chúng” của Mãn Giác Thiền sư bằng 14 thứ tiếng. Tiếp đó là bộ Tâm kinh Bát Nhã Ba La Mật. Đầu tháng 5-2014 vừa qua, ông tiếp tục xác lập kỷ lục thứ ba, đó là thêu tay hai bài thơ "Tẩu lộ” và "Hoàng hôn” - hai bài thơ trong tập "Nhật ký trong tù” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
VÕ SƠN TRUNG
Con người đó, là nhà văn, nhà văn hóa, nhà từ điển học Đào Đăng Vỹ cực kỳ nổi tiếng ở Huế từ những năm 1940. Ông sinh ngày 1 tháng 2 năm 1908 tại Huế, có tài liệu nói ông mất ngày 7/4/1987 tại California - Mỹ(1).
Cật tre được lựa từ rừng già, xung quanh lồng được chạm trổ tuồng tích như một bức tranh hoàn hảo… Những chiếc lồng chim như một tác phẩm nghệ thuật ấy có giá cả chục triệu đồng.
Nếu còn sống, ngày 28 tháng 2 năm nay, cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn sẽ tròn 75 tuổi. Nhưng ông đã nằm xuống 13 năm rồi, vào một ngày đầu hạ, cái ngày mà cả thế giới có quyền được nói dối và chắc hẳn nhiều người yêu thương ông cũng từng mong đó chỉ là một lời nói đùa…