TRỌNG BÌNH
Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...
Tiết mục "Lục triệt hoa mã đăng" - Múa Cung đình Huế - trong đêm khai mạc Liên hoan du lịch quốc tế Hà Nội 2005
Trải qua thời gian, chính hơi thở của đời sống văn hóa nghệ thuật đã từng ngày thổi vào loại hình này những sắc thái mới của cuộc sống để đưa nó trở thành một loại hình nghệ thuật hoàn thiện nơi chốn cung vua, phủ chúa.
Nghệ thuật cung đình nói chung và các vũ khúc cung đình Huế nói riêng là những sản phẩm mang tính kế thừa của chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và kết tinh dưới thời nhà Nguyễn. Theo Những đại lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, ngày xưa những dịp quốc lễ, quốc khánh trong cung của vua chúa có trình diễn ca và vũ. Tuy nhiên, những vũ khúc cổ này đã thất truyền rất nhiều, đến đời nhà Nguyễn chỉ còn lại 11 vũ khúc đó là: bát dật, lục cúng hoa đăng, tam tinh chúc thọ, bát tiên hiến thọ, trình tường tập khánh, đấu chiến thắng Phật, tứ linh, nữ tướng xuất quân, vũ phiến (múa quạt), tam quốc - tây du và lục triệt hoa mã đăng. Như vậy, vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng được Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề sắp xếp đứng cuối cùng theo thứ tự so với các vũ khúc còn lại.
Dưới thời nhà Nguyễn, vua Khải Định (1916 - 1925) ban dụ lấy ngày mồng 2 tháng 5 âm lịch làm tiết Hưng quốc khánh niệm để ghi nhớ công đức dựng nước của vua Gia Long (1802 - 1820). Lễ Hưng quốc khánh niệm bắt đầu từ mồng 1 đến mồng 3 tháng 5 âm lịch. Trong 3 ngày ấy các công sở được nghỉ. Trên kỳ đài treo quốc kỳ vàng, các cổng thành treo môn kỳ. Công sở và tư gia ban ngày ngoài cửa treo cờ, ban đêm thắp đèn. Thuyền bè qua lại trên sông Hương cũng treo cờ và thắp đèn. Trong lễ Hưng quốc khánh niệm, buổi tối trước Phu Văn Lâu, Thự Thanh Bình cho trình diễn các vũ khúc như: tứ linh, tam tinh chúc thọ, Lục triệt hoa mã đăng… trong các vũ khúc nói trên, Lục triệt hoa mã đăng luôn thu hút được sự chú ý của vua quan cũng như sự tò mò của dân chúng, bởi âm nhạc, lời ca, sự nhịp nhàng của người và ngựa cùng trình diễn với nhau rộn ràng cả một khoản sân rộng.
Lục triệt hoa mã đăng là một trong những vũ khúc cung đình thuộc thể loại múa chúc tụng, ngoài việc biểu diễn trong lễ Hưng quốc khánh niệm của triều đình nhà Nguyễn, vũ khúc này còn được biểu diễn vào đầu năm mới, số lượng diễn viên tham gia thể hiện luôn là số chẵn được qui chuẩn bằng các con số: 12, 24, 48 hoặc 64… tùy thuộc theo điều kiện cụ thể. Sau khi vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng không còn dùng ngựa nữa, các diễn viên thể hiện điệu múa bằng cách, trước bụng mang một cái đầu ngựa, sau lưng mang đuôi ngựa, tay cầm roi ngựa, đầu đội mũ ngạch quan, trên vai mang hai chậu đèn hoa sen có thắp nến, họ vừa múa, vừa hát giống như điệu múa cung đình Tam quốc - Tây du. Do không còn dùng ngựa thật, nên để chuyển tải nội dung điệu múa đến với người xem các diễn viên đã dùng các động tác thuộc hệ thống vũ đạo tuồng Huế để mô phỏng cách bắt ngựa, cách lên ngựa, cách phi ngựa, cách xuống ngựa, cách đá ngựa… và dù chỉ dùng ngựa giả, nhưng nhờ ca từ của lời hát được cất lên kèm theo động tác được lồng cùng với âm nhạc nên người xem hiểu được nội dung của điệu múa.
Dù trình diễn trong ngày lễ Hưng quốc khánh niệm của triều đình hay biểu diễn trong dịp tết Nguyên đán để chào đón năm mới, thì vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng đều mang nội dung chúc tụng những lời tốt đẹp dành cho nhà vua - thiên tử đang trị vì triều đại của mình, ví dụ trong ca từ của khúc hát Nhất triệt viết:
“Thể càn nhân, siển khôn trân
Vạn bang triều cống thế như xuân
Ngã hoàng cương kỷ pháp Chu-vương, hóa cập tứ phương
Gia gia hưu hưu tập chí đức, thọ vô cương”.
Dịch nghĩa:
“Thể lòng nhân của trời, mở quí báu của đất
Muôn nước về triều cống, đời vui vẻ như xuân
Mối dường vua ta bắt chước như pháp lệnh Chu-vương, đức hóa khắp bốn phương
Tươi tươi tốt tốt nhiều đức lớn, sống lâu không biết ngần nào”.
Hay trong khúc hát tam triệt cũng viết:
“Khôn-cung nhật noãn ái từ vân
Hiếu dưỡng thân tình khế Thuấn Văn
Gia cập bang thức thị nghi hình, chí đức bình minh
Thần thần dân dân ca phúc khánh, ngã hoàng vạn tư linh”.
Dịch nghĩa:
“Khôn-cung ấm áp mây từ sáng tỏ
Hiếu dưỡng tình thân như vua Thuấn và vua Văn-Vương
Nhà với nước đều theo khuôn phép ấy, đức lớn sáng suốt
Thần thần dân dân ca chúc phúc khánh, vua ta thọ muôn tuổi”.
Múa Cung đình Huế là kết tinh những giá trị nghệ thuật sân khấu của thời đại, là sản phẩm nghệ thuật được các nghệ sĩ cung đình sáng tạo nên để ca ngợi cuộc sống trong chốn cung đình. Chính điều này đã tạo cho văn hóa Huế vô cùng phong phú và độc đáo. Từ khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, những giá trị nghệ thuật đó đã bị mai một dần với thời gian, không nằm ngoài quy luật đó, vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng cũng đã thất truyền và chỉ còn được miêu tả trên các văn bản. Do đó, trước đây, khi Đoàn Nghệ thuật Truyền thống Huế (thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) dàn dựng lại điệu múa này để trình diễn trong Festival Huế 2002, do âm nhạc dành cho điệu múa này đã bị thất truyền nên khi khôi phục lại âm nhạc của vũ khúc này, chúng tôi đã dựa trên chất liệu âm nhạc của cung đình để khai thác. Tuy nhiên, sau khi được khôi phục vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng (chúng tôi còn gọi là múa ngựa) cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn rồi đi vào quên lãng cho đến nay.
Các vũ khúc cung đình nói chung, Lục triệt hoa mã đăng nói riêng ngoài vẻ đẹp nghệ thuật, thì bố cục của điệu múa luôn được sắp xếp một cách tinh tế hòa quyện với không gian và môi trường diễn xướng. Chính những yếu tố này đã làm nên một nét riêng biệt trong chốn hoàng cung xưa.
Hiện nay, vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng đã không còn nguyên vẹn, do đó việc đi tìm cứ liệu từ các nghệ nhân, nhằm mục đích lập hồ sơ khoa học làm chứng cứ cho việc khôi phục lại vũ khúc này cũng là một cách để chúng ta gìn giữ và bảo tồn những giá trị di sản mà người xưa đã để lại cho chúng ta.
T.B
(SH300/02-14)
DƯƠNG BÍCH HÀ
Âm nhạc dân gian (ÂNDG) xứ Huế (chúng tôi muốn mở rộng không gian địa lý của nó bao gồm một số huyện từ phía Nam Quảng Trị trở vào) là một thành phần của văn hóa dân gian Huế, nhưng cũng là một bộ phận của âm nhạc truyền thống dân tộc.
TRƯƠNG TRỌNG BÌNH
Nằm trong hệ thống Tiểu nhạc, mỗi bài trong “Mười bản ngự” đều có thể diễn tấu một cách độc lập nhưng khi liên kết và trình tấu liên tục “Mười bản ngự” trở thành một hệ thống bài bản liên hoàn thống nhất tựa như một bài bản lớn.
PHAN THUẬN THẢO
Ca Huế là thể loại âm nhạc thính phòng dành cho giới danh gia vọng tộc, tao nhân mặc khách của Huế xưa. Thời điểm ra đời của Ca Huế không được ghi trong sử sách, song nhiều học giả đã dựa trên một số chứng cứ văn hóa - xã hội để đoán định rằng nó bắt đầu hình thành dưới thời chúa Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725).
PHAN THUẬN THẢO
Trong nhạc mục của Ca Huế hiện nay có một bài bản chính thống nhưng không mấy phổ biến, đó là bài Lộng điệp.
TÔN THẤT BÌNH
Nước Trung Quốc, về thời cổ "Vua Hán Vũ Đế (140 - 86 tr. Tây lịch) định lễ Giao tự để tế tiên địa tôn miếu và bách thần, mới đặt ra nhạc phủ.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Xứ Huế là mảnh đất của thơ ca, là không gian của nhạc. Đặc điểm của Huế là sự dung hợp tự nhiên giữa dân dã với đô thị, cung đình; là ranh giới khó phân định giữa bác học với dân gian, giữa ngoại ô và nội thị...
PHAN THUẬN THẢO
“Di tình nhã điệu” là một văn bản Hán Nôm quý hiếm của âm nhạc cổ truyền Việt Nam. Tác giả và niên đại không được ghi chép trên tài liệu này nên chưa được xác định chính xác.
TRẦN HỮU PHÁP
Những nhạc sĩ sáng tác chúng tôi mỗi khi gặp nhau thường nói vui có lẽ chúng ta phải chuyển ngành, bởi vì những tác phẩm chúng ta tạo ra từ trái tim của mình cứ phải nằm trong ngăn kéo qua năm tháng.
PHAN THUẬN THẢO
Các khái niệm trống và mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống và mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.
NGUYỄN CÔNG TÍCH
Được sự đồng ý về mặt chủ trương của Lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế phối hợp với Trung tâm Hỗ trợ sáng tác Văn học nghệ thuật (Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức Trại sáng tác Âm nhạc “Huế xưa và nay”, diễn ra từ ngày 08 đến 29/9/2018 với sự tham gia của 16 nhạc sĩ tên tuổi trong cả nước.
PHAN THUẬN THẢO
Quạnh quẽ màn loan, tay ôm đàn tình tang tích tịch
Cung réo rắt đau lòng riêng càng thêm chạnh, vì ai thêm bận
Ngồi trông bạn, kìa đâu bạn, mờ mịt trời mây én nhạn lìa đôi
Tình đau thương tình ôi…
VĨNH PHÚC
Dưới thời Khải Định (1916 - 1925), năm 1919 nhà vua cho lập một dàn nhạc kèn hơi theo kiểu Pháp để làm công tác đối ngoại, phục vụ cho các nghi lễ do triều đình tổ chức như các buổi đón khách, tiếp sứ…
Có tiếng trong giới mộ điệu âm nhạc từ thập niên 1990, song đến bây giờ nhạc sĩ (NS) Nguyễn Việt Hoàng mới đóng góp cho quê hương nhạc phẩm “Ai về cầu ngói Thanh Toàn” nhân Festival Huế 2018.
Trong chuyến thăm Việt Nam, ngày 4/3 sau khi đến Huế, Nhà vua và Hoàng hậu Nhật Bản đã đến thăm Đại Nội và xem biểu diễn Nhã nhạc cung đình Huế tại Nhà hát Duyệt Thị Đường.
PHAN THUẬN THẢO
Bước sang thế kỷ XX, tình hình văn hóa xã hội của nước ta có nhiều biến chuyển theo những ảnh hưởng của văn hóa phương Tây sau nhiều thập kỷ chịu sự đô hộ của Pháp.
TRỌNG BÌNH
Những vũ khúc cung đình Huế luôn mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Ở đó, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt.
Nhạc: NGUYỄN TRUNG DŨNG
Thơ: LÊ BÁ NGỮ
TÔN THẤT BÌNH
Ba Vũ là đoàn múa cung đình độc nhất còn lại ở Huế đến ngày nay. Đây là một đoàn có nguồn gốc lịch sử lâu đời; có nghệ thuật trình diễn độc đáo.
Nhạc: THANH SỬ
Thơ: TRẦN THỊ TỐ NGA