Về vũ khúc cung đình “Lục triệt hoa mã đăng”

08:06 25/01/2014

TRỌNG BÌNH

Nghệ thuật Múa Cung đình Huế mang đậm tính triết lý và thẩm mỹ phương Đông. Trong múa cung đình, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các động tác múa, sự di chuyển đội hình theo các tuyến, ngang, dọc, xéo cộng với việc tạo hình tượng theo hình khối làm nên nét đặc trưng riêng biệt, điển hình là các điệu: lục cúng hoa đăng, trình tường tập khánh, phụng vũ, tứ linh, vũ phiến, Lục triệt hoa mã đăng...

Tiết mục "Lục triệt hoa mã đăng" - Múa Cung đình Huế - trong đêm khai mạc Liên hoan du lịch quốc tế Hà Nội 2005

Trải qua thời gian, chính hơi thở của đời sống văn hóa nghệ thuật đã từng ngày thổi vào loại hình này những sắc thái mới của cuộc sống để đưa nó trở thành một loại hình nghệ thuật hoàn thiện nơi chốn cung vua, phủ chúa.

Nghệ thuật cung đình nói chung và các vũ khúc cung đình Huế nói riêng là những sản phẩm mang tính kế thừa của chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm và kết tinh dưới thời nhà Nguyễn. Theo Những đại lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam của Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, ngày xưa những dịp quốc lễ, quốc khánh trong cung của vua chúa có trình diễn ca và vũ. Tuy nhiên, những vũ khúc cổ này đã thất truyền rất nhiều, đến đời nhà Nguyễn chỉ còn lại 11 vũ khúc đó là: bát dật, lục cúng hoa đăng, tam tinh chúc thọ, bát tiên hiến thọ, trình tường tập khánh, đấu chiến thắng Phật, tứ linh, nữ tướng xuất quân, vũ phiến (múa quạt), tam quốc - tây du và lục triệt hoa mã đăng. Như vậy, vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng được Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề sắp xếp đứng cuối cùng theo thứ tự so với các vũ khúc còn lại.


Dưới thời nhà Nguyễn, vua Khải Định (1916 - 1925) ban dụ lấy ngày mồng 2 tháng 5 âm lịch làm tiết Hưng quốc khánh niệm để ghi nhớ công đức dựng nước của vua Gia Long (1802 - 1820). Lễ Hưng quốc khánh niệm bắt đầu từ mồng 1 đến mồng 3 tháng 5 âm lịch. Trong 3 ngày ấy các công sở được nghỉ. Trên kỳ đài treo quốc kỳ vàng, các cổng thành treo môn kỳ. Công sở và tư gia ban ngày ngoài cửa treo cờ, ban đêm thắp đèn. Thuyền bè qua lại trên sông Hương cũng treo cờ và thắp đèn. Trong lễ Hưng quốc khánh niệm, buổi tối trước Phu Văn Lâu, Thự Thanh Bình cho trình diễn các vũ khúc như: tứ linh, tam tinh chúc thọ, Lục triệt hoa mã đăng… trong các vũ khúc nói trên, Lục triệt hoa mã đăng luôn thu hút được sự chú ý của vua quan cũng như sự tò mò của dân chúng, bởi âm nhạc, lời ca, sự nhịp nhàng của người và ngựa cùng trình diễn với nhau rộn ràng cả một khoản sân rộng.

Lục triệt hoa mã đăng là một trong những vũ khúc cung đình thuộc thể loại múa chúc tụng, ngoài việc biểu diễn trong lễ Hưng quốc khánh niệm của triều đình nhà Nguyễn, vũ khúc này còn được biểu diễn vào đầu năm mới, số lượng diễn viên tham gia thể hiện luôn là số chẵn được qui chuẩn bằng các con số: 12, 24, 48 hoặc 64… tùy thuộc theo điều kiện cụ thể. Sau khi vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng không còn dùng ngựa nữa, các diễn viên thể hiện điệu múa bằng cách, trước bụng mang một cái đầu ngựa, sau lưng mang đuôi ngựa, tay cầm roi ngựa, đầu đội mũ ngạch quan, trên vai mang hai chậu đèn hoa sen có thắp nến, họ vừa múa, vừa hát giống như điệu múa cung đình Tam quốc - Tây du. Do không còn dùng ngựa thật, nên để chuyển tải nội dung điệu múa đến với người xem các diễn viên đã dùng các động tác thuộc hệ thống vũ đạo tuồng Huế để mô phỏng cách bắt ngựa, cách lên ngựa, cách phi ngựa, cách xuống ngựa, cách đá ngựa… và dù chỉ dùng ngựa giả, nhưng nhờ ca từ của lời hát được cất lên kèm theo động tác được lồng cùng với âm nhạc nên người xem hiểu được nội dung của điệu múa.

Dù trình diễn trong ngày lễ Hưng quốc khánh niệm của triều đình hay biểu diễn trong dịp tết Nguyên đán để chào đón năm mới, thì vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng đều mang nội dung chúc tụng những lời tốt đẹp dành cho nhà vua - thiên tử đang trị vì triều đại của mình, ví dụ trong ca từ của khúc hát Nhất triệt viết:

“Thể càn nhân, siển khôn trân
Vạn bang triều cống thế như xuân

Ngã hoàng cương kỷ pháp Chu-vương, hóa cập tứ phương
Gia gia hưu hưu tập chí đức, thọ vô cương”.


Dịch nghĩa:

“Thể lòng nhân của trời, mở quí báu của đất
Muôn nước về triều cống, đời vui vẻ như xuân

Mối dường vua ta bắt chước như pháp lệnh Chu-vương, đức hóa khắp bốn phương
Tươi tươi tốt tốt nhiều đức lớn, sống lâu không biết ngần nào”.

Hay trong khúc hát tam triệt cũng viết:

Khôn-cung nhật noãn ái từ vân
Hiếu dưỡng thân tình khế Thuấn Văn
Gia cập bang thức thị nghi hình, chí đức bình minh

Thần thần dân dân ca phúc khánh, ngã hoàng vạn tư linh”.

Dịch nghĩa:

“Khôn-cung ấm áp mây từ sáng tỏ
Hiếu dưỡng tình thân như vua Thuấn và vua Văn-Vương
Nhà với nước đều theo khuôn phép ấy, đức lớn sáng suốt
Thần thần dân dân ca chúc phúc khánh, vua ta thọ muôn tuổi”.


Múa Cung đình Huế là kết tinh những giá trị nghệ thuật sân khấu của thời đại, là sản phẩm nghệ thuật được các nghệ sĩ cung đình sáng tạo nên để ca ngợi cuộc sống trong chốn cung đình. Chính điều này đã tạo cho văn hóa Huế vô cùng phong phú và độc đáo. Từ khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, những giá trị nghệ thuật đó đã bị mai một dần với thời gian, không nằm ngoài quy luật đó, vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng cũng đã thất truyền và chỉ còn được miêu tả trên các văn bản. Do đó, trước đây, khi Đoàn Nghệ thuật Truyền thống Huế (thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) dàn dựng lại điệu múa này để trình diễn trong Festival Huế 2002, do âm nhạc dành cho điệu múa này đã bị thất truyền nên khi khôi phục lại âm nhạc của vũ khúc này, chúng tôi đã dựa trên chất liệu âm nhạc của cung đình để khai thác. Tuy nhiên, sau khi được khôi phục vũ khúc Lục triệt hoa mã đăng (chúng tôi còn gọi là múa ngựa) cũng chỉ tồn tại một thời gian ngắn rồi đi vào quên lãng cho đến nay.

Các vũ khúc cung đình nói chung, Lục triệt hoa mã đăng nói riêng ngoài vẻ đẹp nghệ thuật, thì bố cục của điệu múa luôn được sắp xếp một cách tinh tế hòa quyện với không gian và môi trường diễn xướng. Chính những yếu tố này đã làm nên một nét riêng biệt trong chốn hoàng cung xưa.

Hiện nay, vũ khúc cung đình Lục triệt hoa mã đăng đã không còn nguyên vẹn, do đó việc đi tìm cứ liệu từ các nghệ nhân, nhằm mục đích lập hồ sơ khoa học làm chứng cứ cho việc khôi phục lại vũ khúc này cũng là một cách để chúng ta gìn giữ và bảo tồn những giá trị di sản mà người xưa đã để lại cho chúng ta.

T.B
(SH300/02-14)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Nhạc: ĐỨC TÙNG
    Thơ:   HẠO NHIÊN

  • Với mục đích bảo tồn những vốn quí mà cha ông để lại và đặc biệt là sau khi Nhã nhạc được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại thì Nhã nhạc đã được chú ý hơn, nhưng cái đáng quan tâm hơn hết là vấn đề đi tìm lại những ‘mảnh vỡ” của một số bài bản Nhã nhạc đang lưu lạc ngoài dân gian nhằm mục đích khôi phục để trả nó về với môi trường diễn xướng nguyên thủy là chốn cung đình xưa. Tác phẩm Nhã nhạc “Thái Bình Cổ Nhạc” cũng là một trong những “mảnh vỡ” vừa được lập hồ sơ khoa học và báo cáo. 

  • LÊ MAI PHƯƠNG  

    Tuồng, loại hình nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc manh nha hình thành từ thế kỷ XIII dưới thời Trần. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang triều Nguyễn (thế kỷ XIX) Tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hóa ở cung đình cũng như trong dân gian. Sau khi nhà Nguyễn cáo chung, Tuồng cũng mất đi môi trường diễn xướng, hiện nay đang có nguy cơ mai một dần.

  • HOÀNG TRỌNG CƯƠNG 

    Trong một số tài liệu về âm nhạc cung đình của những tác giả tiền bối, cây đàn bầu Việt Nam đã được dự đoán về niên đại ra đời của nó, về sự thăng trầm song hành cùng với chiều dài lịch sử dân tộc.

  • TRẦN VĂN KHÊ

    Từ 10 năm nay Nhã nhạc cung đình Huế được Unesco tôn vinh là một kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, là một danh hiệu rất lớn so với những danh hiệu sau này (Unesco đã bỏ chữ “kiệt tác” và thay thế chữ “của” bằng chữ “đại diện”), vì những lẽ đó mà việc bảo tồn và phát triển nhã nhạc Huế có phần khó khăn.

  • HÀN NHÃ LẠC

    Có lẽ hiện giờ ở Huế, không có ai cảm chơi ca Huế được như nhà văn Bửu Ý. Ông thường nói cái hay của ca Huế, nghe hay đến nhức xương. Và ngay từ khi vợ ông, cô Lợi còn sống, mỗi thứ bảy, gia đình ông lại tổ chức nghe ca Huế nhức xương một buổi.

  • Sau khi triều đình nhà Nguyễn cáo chung, âm nhạc cung đình cũng mất đi môi trường diễn xướng nguyên thủy, do đó loại hình nghệ thuật này đã theo chân các nghệ nhân cung đình lan tỏa về với dân gian, tác động vào nghệ thuật dân gian trên nhiều vùng văn hóa trong cả nước. 

  • VÕ QUÊ

    Dân tộc Việt Nam do hoàn cảnh địa lý và các điều kiện khách quan khác đã có một nền văn hóa đa dạng, trong đó bộ môn Ca Huế đã tiếp thu, kế thừa và ảnh hưởng nhiều sắc thái, tinh hoa của nhiều vùng đất khác nhau.

  • (SHO) Ca sĩ Hà Thanh vừa mất lúc 7g27 đêm 1-1 (giờ địa phương, tức sáng 2-1 giờ VN) tại TP Boston, tiểu bang Massachusetts (Mỹ) sau thời gian mắc bệnh ung thư máu.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Văn Giảng, con người của những nốt nhạc mơ mộng chân nhiên nơi miền non nước Hương Bình đã dấn thân trong miền giao cảm của nước, của sông, của tiếng chuông chùa ngân vọng để viết nên những ca khúc bất hủ Ai về sông Tương, Đôi mắt huyền, Từ Đàm quê hương tôi... tô vẻ thêm cho tiếng lòng vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG

    Ở Huế có câu hò nổi tiếng tới mức không người Huế nào không được nghe, không du khách nào không từng một lần thưởng thức:

  • NGUYỄN TẤN TÔN NỮ Ý NHI

    Theo dòng chảy của lịch sử, Ca Huế giờ đây không còn là sản phẩm phục vụ riêng cho một tầng lớp nhất định trong xã hội: giới quý tộc. Cùng với xu hướng xã hội hóa, hiện nay loại hình nghệ thuật này nghiễm nhiên gần gũi hơn với công chúng Huế nói riêng và du khách thập phương nói chung.

  • TRỌNG BÌNH - QUÝ CÁT  

    Nền âm nhạc cổ truyền nói chung và Âm nhạc cung đình Việt Nam nói riêng từ xa xưa đã có một kiểu chữ nhạc riêng dùng để ký âm, ghi chép thành văn bản tất cả các bài bản để lưu truyền qua nhiều thế hệ...

  • HỒ THẾ HÀ

    Năm con rồng Nhâm Thìn (2012), Mai Xuân Hòa tròn 82 tuổi đời và nếu tính từ ngày anh tham gia học lớp âm nhạc ngắn hạn đầu tiên năm 1956, trước khi chính thức học ở trường Âm nhạc Việt Nam (1958 - 1962) thì anh đã có 56 tuổi nghề âm nhạc.

  • DƯƠNG BÍCH HÀ

    Huế - theo dòng chảy của thời gian, đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử; âm nhạc Huế cũng không nằm ngoài “luồng” của dòng chảy đó.

  • MAI XUÂN HÒA (Thơ: Nguyễn Tất Thịnh)

    Phải chăng em là gió/ phải chăng em là mây/ Gió nghiêng chao nhè nhẹ/ mây bồng bềnh bay bay…

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản”.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.

  • Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác Văn học Nghệ thuật hướng về thiên tai với chủ đề “Nguyện cầu cho nạn nhân động đất tại Nhật Bản” do Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức.