TRẦN VIẾT ĐIỀN
Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.
Đình làng Triều Sơn
Khi về làng Triều Sơn tìm hiểu, mới thấy ngôi làng cổ này là một làng nông, rất trọng sĩ, nghĩa là một làng trọng việc học không kém những làng Đồng Di, An Hòa… Làng cổ này đã từng chia 4 giáp, Triều Sơn Đông, Triều Sơn Nam, Triều Sơn Trung, Triều Sơn Tây. Bốn giáp đã phát triển mọi mặt, số lượng cư dân đông đúc, đã xây dựng đình giáp hoành tráng,… nhưng vẫn không quên “nguồn cội”, vẫn chung sức tôn tạo đình làng Triều Sơn năm 2014 và hằng năm dân của bốn giáp Đông, Nam, Trung, Tây đều tề tựu ở đình chung, tọa lạc ở Triều Sơn Đông để tế lễ vào ngày 1/7 âm lịch.
Tiền khai canh là họ Hoàng
Cuối tháng 6 âm lịch, anh Văn Quang Minh, người làng Triều Sơn, từng tham gia thiết kế và thi công ngôi đình làng Triều Sơn năm 2014, giúp chúng tôi khảo sát điền dã ở Triều Sơn. Chúng tôi thu thập bước đầu một số thông tin sau: xã Triều Sơn, thuộc huyện Tư Vinh có tên trong danh mục làng xã thuộc sách Ô Châu cận lục do Dương Văn An viết năm 1553. Triều Sơn được thành lập vào khoảng đời vua Lê Nhân Tông. Qua gia phả của các dòng họ, biết Triều Sơn được thành lập trên cơ sở 11 họ tộc khai canh lập làng. Gia phả nhiều dòng họ ghi chép rằng tổ tiên nguyên là người xã Bạch Câu, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa thuộc đất Hoan Châu xưa, đến triều Lê Nhân Tông năm Thái Hòa thứ 3 [1446] di cư đến vùng Hóa Châu và thành lập nên xã Triều Sơn. Ở Triều Sơn Đông, sau khi phân chia 4 giáp, vào triều Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), trong 11 họ được phân về các giáp thì tại Triều Sơn Đông có 6 họ Tiền Khai canh, Hậu Khai khẩn. Trước đây con cháu các họ của làng Triều Sơn không rõ về vị trí cao thấp của họ mình vào thời tiền khai canh của làng nên dẫn đến tranh chấp. Ròng rã 8 năm 3 tháng, các họ đã nhiều lần làm đơn khiếu nại với quan trên. Bộ Lễ triều Nguyễn chiếu theo hương phổ và những giấy tờ khác mà làng và các giáp còn phụng giữ, đã duyệt y thứ tự của các dòng họ tiền khai canh là Hoàng, Đỗ, Lê, Hồ, Trần, Mạc, Phùng (vô tự). Họ Hoàng là họ tiền khai canh, từng sống ở Triều Sơn Đông, và 4 người con trai họ Hoàng được làng chia ra thờ ở 4 giáp.
![]() |
Dấu tích Văn Thánh Triều Sơn và bia ghi dấu di tích |
Triều Sơn từng có “Trường đại học” của Đàng Trong
Khi được một số bác ở Triều Sơn giúp đỡ trong việc nghiên cứu các giáp, chúng tôi đến Triều Sơn Trung thăm di tích Văn Thánh Triều Sơn, được dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Di tích đã trở thành phế tích. Nhà Dụy Lễ, Học cung,… chỉ còn nền móng, trên đó dân sở tại đã biến thành những cồn mồ. Di tích chỉ còn bệ thờ, hai tấm bia đá và phía trước còn dấu vết của hồ bán nguyệt. Các bác cao tuổi của làng cho biết: “Ngày xưa mỗi lần tế Đinh ở Văn Thánh, dân làng Triều Sơn đều dùng kiệu rước bài vị của Bà, từ miếu Bà ra dự lễ”.
Một làng có hai Thành Hoàng nữ
Chúng tôi nhờ các bác giúp khảo sát miếu Bà. Điều ngạc nhiên là ở Triều Sơn Trung có hai miếu Bà kiến trúc giống nhau, cả hai bài vị trong miếu đều ghi “Bổn thổ Thành Hoàng”. Đây là điểm độc đáo của làng Triều Sơn. Hai bà Thành Hoàng Triều Sơn là ai?
Chúng tôi rà soát tư liệu về làng gốc Bạch Câu Nga Sơn Thanh Hóa của Triều Sơn. Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi tôn thần do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn và Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng tả, năm Vĩnh Hựu thứ 3 [1737]. Hiện “Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi” do dòng họ Hỏa ở làng Quang Đức lưu giữ. Nguyệt Nga hoàng phi tên thật là Hỏa Thị Ninh Thuận, hiệu Nguyệt Nga nương. Bà là con gái của ông Hỏa Đức Lương gốc ở đảo Đông Hải và bà Hoàng Thị Duyên, vùng Bạch Câu. Bà Duyên mơ thấy một tiên ông cho bà hai quả đào tiên. Bà ăn hết hai quả đào thì ông lão biến mất. Từ đấy bà Duyên thụ thai, năm sau, ngày lành tháng 9 năm năm Kỷ Dậu (1429) bà sinh đôi hai cô con gái. Cô chị là Hỏa Thị Ninh Khương, hiệu là Nguyệt Diệu nương và cô em là Hỏa Thị Ninh Thuận, hiệu là Nguyệt Nga nương. Hai nàng tư chất thông minh, nhan sắc và dung mạo hơn người. Ông Hỏa Đức Lương xuất thân nghề sông nước nhưng cũng rất giỏi võ nghệ nên ông đem nghề võ truyền dạy cho cô con gái. Hai nàng đều làu thông võ nghệ gia truyền, lại được học văn chương kinh sử, nên hai nàng họ Hỏa nổi tiếng tài sắc trong vùng. Thời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459) có giặc Chiêm Thành vào cướp phá. Quân vua đi đánh giặc. Khi qua châu thị Nga Sơn, hai chị em họ Hỏa cùng nhiều người Nga Sơn tòng quân, trở thành hai nữ tướng tài ba và xinh đẹp. Hai bà hiến kế lập quán bên đường cho giặc thấy mà không đề phòng gì, rồi thừa cơ đánh úp. Quả nhiên giặc trúng kế. Sau đó họ hiến kế giả dạng quân lính Chiêm Thành để nhập thành làm kế nội công… Quân vua bắt sống được vua Chiêm Thành đem về triều. Khi nhà vua gặp hai nữ tướng họ Hỏa, biết chiến công của họ, nhà vua rất “ngưỡng mộ” truyền “nhập cung”, về sau hai bà thành hoàng phi. Năm Đinh Sửu niên hiệu Diên Ninh thứ tư, Nguyệt Nga Hoàng phi lại về thăm quê. Ngày 13 - 3, từ trong bến phường trông ra cửa sông Nga Giang, đã thấy rõ cờ hiệu của thuyền Hoàng phi. Bỗng trời đất tối sầm, nổi giông tố, sóng biển cao, nhấn chìm thuyền Hoàng phi… Ngựa trạm chạy tin khẩn, nhà vua nghe tâu đau đớn, lệnh tiếp tục truy tìm và lập đàn cầu đảo. Ba ngày sau thi thể Nguyệt Nga Hoàng phi nổi lên ngay cửa Nga Giang, thần sắc vẫn tươi như khi còn sống. Người ta vớt thi thể Hoàng phi lên đưa về Minh Đang quàn tang, thiết đàn tế ba ngày, rồi an táng tại xứ Qua Ty (nay thuộc làng Trung Nghĩa, xã Nga Trung), phần mộ tọa Tốn hướng Càn (đông nam - tây bắc). Tượng Hoàng phi Nguyệt Nga được nghệ nhân tạc bằng gỗ trầm hương, sơn son thếp vàng. Nhà vua sắc phong: Đương cảnh thành hoàng Trinh hòa thục mỹ nhụ minh dục hành thuần nhất công chúa. Lại gia phong: Hỏa Quý Thị Nương hiệu Từ Thuận cung phi đệ tứ Chiêu linh phu nhân thượng đẳng tôn thần. Nguyệt Nga Hoàng phi được sắc phong Thành Hoàng làng ngày15 - 3 Đinh Sửu (1457) Diên Ninh năm thứ tư (Nguồn: Thứ 7 ngày 12/01/20139/17/14 baothanhhoa).
Thánh tích phù hợp chính sử
Tra cứu Đại Việt sử ký toàn thư được biết thời vua Lê Nhân Tông có những cuộc chiến tranh Chiêm - Việt: “Giáp Tý, [Thái Hòa] năm thứ 2 [1444]… Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành là Bí Cai vào cướp thành châu Hóa, cướp bắt nhân dân. Sai Nhập nội kiểm hiệu thái bảo Lê Bôi và Tổng quản Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh” (sđd, tập II, tr. 355). “Ất Sửu, [Thái Hòa] năm thứ 3… Mùa hạ, tháng 4, Chiêm Thành vào cướp thành An Dung của châu Hóa. Tháng 5, gặp nước lũ nên thua to… Tháng 6… ngày 25, sai bọn Nhập nội kiểm hiệu tư đồ bình chương sự Lê Thận, Nhập nội đô đốc Lê Xí đi đánh Chiêm Thành… Tháng 12, sai Bình chương sự Lê Khả đi đánh Chiêm Thành” (sđd, tập II, tr. 355). Hai năm lại có 3 cuộc Nam chinh, với tướng giỏi và quân thường trực. Nhưng năm Bính Dần triều đình Lê Nhân Tông, có tuyển binh ồ ạt và mở chiến dịch lớn: “Bính Dần, [Thái hòa] năm thứ 4 [1446]… Mùa Xuân, tháng giêng, đúng kỳ hội quân lớn, chọn người khỏe mạnh đi đánh Chiêm Thành. Sai dân phu vận chuyển lương thực tới chứa ở huyện Hà Hoa.
Ngày 22, sai bọn Nhập nội đô đốc bình chương Lê Thụ, Lê Khả, Nhập nội thiếu phó tham dự triều chính Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Vua thấy chúa Chiêm Thành là Bí Cai nhiều lần dốc quân cả nước vào cướp, cho nên sai đi đánh.
Tháng 2… các quân của bọn Lê Thụ đến các xứ Ly Giang, Đa Lang, Cổ Lũy mở thông đường thủy, dựng đắp thành lũy để đánh nhau với giặc, phá tan giặc, thừa thắng đánh thẳng đến cửa biển Thi Nại.
Mùa hạ tháng 4 ngày 25, các quân của bọn Lê Thụ tiến công thành Chà Bàn phá tan quân giặc, bắt được chúa nó là Bí Cai và các phi tần, bộ thuộc, ngựa voi vũ khí, cùng các hàng tướng rồi đem quân về.
Tháng 6, đem chúa Chiêm Thành Bí Cai làm lễ dâng tù cáo thắng trận ở Thái Miếu. Đại xá thiên hạ…” (sđd, tập II, tr. 356)
Qua dẫn liệu trên, các nội dung trong Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi tôn thần do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn về cơ bản là khả tín. Chỉ hai chi tiết là vua Lê Nhân Tông thân chinh và “phải lòng” hai chị em họ Hỏa là không đúng. Thật vậy, chiến dịch năm 1446 nhà vua mới 6 tuổi, sử không ghi chép sự kiện nhà vua thân chinh và tất nhiên không có việc nhà vua qua Nga Sơn và ưa hai chị em họ Hỏa. Chỉ có khả năng khi về Thăng Long, triều đình thấy hai chị em nữ tướng xinh đẹp và có tài, có chiến công và vua trẻ rất mến mộ, nên triều đình cho nhập cung theo kiểu tảo hôn. Việc tảo hôn trong triều Lê Nhân Tông từng xảy ra, sử chép: “Mậu Thìn [Thái Hòa] năm thứ 6 [1448]… Tháng 11, đem chị của vua là Vệ Quốc trưởng công chúa gả xuống cho Lê Quát, con trai Thái úy Lê Thụ. Lúc ấy công chúa mới có 10 tuổi, câm không nói được. Xuống chiếu cho Tư khấu Trịnh Khắc Phục làm chủ việc hôn lễ.” (sđd, tập II, tr. 366).
Tại sao làng Triều Sơn có thành hoàng là hai thần nữ và tiền khai canh đứng đầu là họ Hoàng?
Trong đoàn quân Nam chinh, ngoài hai bà nữ tướng họ Hỏa, còn có ông tướng họ Hoàng, cậu của hai bà, cùng bốn người con trai họ Hoàng làm bộ tướng. Có khả năng hai bà được giao đồng chỉ huy một đội quân mà tướng sĩ đa phần là người đồng hương Bạch Câu của hai bà. Thường đoàn quân Nam chinh, vào dừng chân ở Hóa Châu, bổ sung lương thảo, nên có khả năng đội quân do hai nữ tướng trẻ họ Hỏa, bộ tướng gồm năm cha con họ Hoàng đã đóng quân ở vùng đồi bờ bắc sông Bạch Yến, tây sông Hương [Linh Giang]. Về sau, khi khải hoàn, ông cậu họ Hoàng và bốn người con trai có khả năng ở lại để khai hoang lập ấp, kiểu “ngụ binh ư nông”, lập thành làng Triều Sơn. Ở 4 giáp ở làng Triều Sơn, dân sở tại đều thừa nhận tiền khai canh đứng đầu là ngài Hoàng quí công cùng với 4 người con trai là Hoàng nhất lang, Hoàng nhị lang, Hoàng tam lang, Hoàng tứ lang. Khi yên giặc, các vị tướng cùng quân lính đồng hương lại về quê gốc Bạch Câu Nga Sơn, vận động thân bằng quyến thuộc vào khai hoang lập ấp. Khi làng gốc Bạch Câu đã có thành hoàng là nhân thần Nguyệt Nga Hoàng phi, dân làng Triều Sơn mới thành lập, đã tôn Hai Hoàng phi họ Hỏa làm hai vị thành hoàng nữ. Làng đã trọng thị hai nữ thành hoàng bằng cách xây dựng hai miếu giống nhau.
![]() |
Miếu Thành Hoàng I - Miếu Thành Hoàng II |
Thay lời kết
Làng cổ Triều Sơn với lịch sử thành lập khá độc đáo vào thời vua Lê Nhân Tông. Đặc biệt, việc thờ thành hoàng cũng lạ và hiếm, với việc phụng thờ hai nhân thần nữ, lại là hai chị em sinh đôi, vừa là hai nữ tướng có tài và cũng là hai hoàng phi của vua trẻ. Nên chăng, làng Triều Sơn đề đạt nguyện vọng lên các cấp chính quyền, các cơ quan hữu trách, lập hồ sơ công nhận năm đình, hai miếu bà Thành Hoàng của làng là những di tích lịch sử cấp quốc gia. Các công ty du lịch có thể “khai thác” tiềm năng du lịch ở Triều Sơn, tổ chức du khách hòa vào các đợt tế lễ ở đình làng Triều Sơn và bốn đình giáp, rước bài vị các nhân thần trong các cuộc tế lễ… Tạo ra những hình thức quảng diễn, tập họp thanh niên của làng tái hiện lại hai hoạt động học hành thi cử ở Văn miếu Triều Sơn và những màn thí võ có hai thiếu nữ tài sắc họ Hỏa. Nên chăng các vị phụ trách làng Triều Sơn tổ chức một cuộc về thăm làng Bạch Câu, Nga Sơn Thanh Hóa, tìm các vị chức sắc của làng cổ Bạch Câu để nhờ các vị giúp chiêm bái những di tích lịch sử, tìm hậu duệ họ Hỏa ở làng Quang Đức để giúp chụp ảnh, photocopy màu những tư liệu về sắc phong, thánh tích được ban và được soạn qua các triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn,… để đưa về Triều Sơn, tôn trí ở đình làng hoặc ở hai miếu Thành Hoàng của làng.
T.V.Đ
(SHSDB20/04-2016)
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!