Về hai nữ thành hoàng làng cổ Triều Sơn

09:06 15/06/2016

TRẦN VIẾT ĐIỀN

Triều Sơn, một tên làng đã vào dạ người Huế bao đời nay, qua câu hò ru em vời vợi. Nhiều người Huế nghĩ rằng làng Triều Sơn chuyên buôn bán, với cụm từ “Triều Sơn bán nón” có trong bài hò ru em phổ biến.

Đình làng Triều Sơn

Khi về làng Triều Sơn tìm hiểu, mới thấy ngôi làng cổ này là một làng nông, rất trọng sĩ, nghĩa là một làng trọng việc học không kém những làng Đồng Di, An Hòa… Làng cổ này đã từng chia 4 giáp, Triều Sơn Đông, Triều Sơn Nam, Triều Sơn Trung, Triều Sơn Tây. Bốn giáp đã phát triển mọi mặt, số lượng cư dân đông đúc, đã xây dựng đình giáp hoành tráng,… nhưng vẫn không quên “nguồn cội”, vẫn chung sức tôn tạo đình làng Triều Sơn năm 2014 và hằng năm dân của bốn giáp Đông, Nam, Trung, Tây đều tề tựu ở đình chung, tọa lạc ở Triều Sơn Đông để tế lễ vào ngày 1/7 âm lịch.

Tiền khai canh là họ Hoàng

Cuối tháng 6 âm lịch, anh Văn Quang Minh, người làng Triều Sơn, từng tham gia thiết kế và thi công ngôi đình làng Triều Sơn năm 2014, giúp chúng tôi khảo sát điền dã ở Triều Sơn. Chúng tôi thu thập bước đầu một số thông tin sau: xã Triều Sơn, thuộc huyện Tư Vinh có tên trong danh mục làng xã thuộc sách Ô Châu cận lục do Dương Văn An viết năm 1553. Triều Sơn được thành lập vào khoảng đời vua Lê Nhân Tông. Qua gia phả của các dòng họ, biết Triều Sơn được thành lập trên cơ sở 11 họ tộc khai canh lập làng. Gia phả nhiều dòng họ ghi chép rằng tổ tiên nguyên là người xã Bạch Câu, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa thuộc đất Hoan Châu xưa, đến triều Lê Nhân Tông năm Thái Hòa thứ 3 [1446] di cư đến vùng Hóa Châu và thành lập nên xã Triều Sơn. Ở Triều Sơn Đông, sau khi phân chia 4 giáp, vào triều Lê Hiển Tông năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775), trong 11 họ được phân về các giáp thì tại Triều Sơn Đông có 6 họ Tiền Khai canh, Hậu Khai khẩn. Trước đây con cháu các họ của làng Triều Sơn không rõ về vị trí cao thấp của họ mình vào thời tiền khai canh của làng nên dẫn đến tranh chấp. Ròng rã 8 năm 3 tháng, các họ đã nhiều lần làm đơn khiếu nại với quan trên. Bộ Lễ triều Nguyễn chiếu theo hương phổ và những giấy tờ khác mà làng và các giáp còn phụng giữ, đã duyệt y thứ tự của các dòng họ tiền khai canh là Hoàng, Đỗ, Lê, Hồ, Trần, Mạc, Phùng (vô tự). Họ Hoàng là họ tiền khai canh, từng sống ở Triều Sơn Đông, và 4 người con trai họ Hoàng được làng chia ra thờ ở 4 giáp.

Dấu tích Văn Thánh Triều Sơn và bia ghi dấu di tích


Triều Sơn từng có “Trường đại học” của Đàng Trong

Khi được một số bác ở Triều Sơn giúp đỡ trong việc nghiên cứu các giáp, chúng tôi đến Triều Sơn Trung thăm di tích Văn Thánh Triều Sơn, được dựng từ thời chúa Nguyễn Phúc Chu. Di tích đã trở thành phế tích. Nhà Dụy Lễ, Học cung,… chỉ còn nền móng, trên đó dân sở tại đã biến thành những cồn mồ. Di tích chỉ còn bệ thờ, hai tấm bia đá và phía trước còn dấu vết của hồ bán nguyệt. Các bác cao tuổi của làng cho biết: “Ngày xưa mỗi lần tế Đinh ở Văn Thánh, dân làng Triều Sơn đều dùng kiệu rước bài vị của Bà, từ miếu Bà ra dự lễ”.

Một làng có hai Thành Hoàng nữ

Chúng tôi nhờ các bác giúp khảo sát miếu Bà. Điều ngạc nhiên là ở Triều Sơn Trung có hai miếu Bà kiến trúc giống nhau, cả hai bài vị trong miếu đều ghi “Bổn thổ Thành Hoàng”. Đây là điểm độc đáo của làng Triều Sơn. Hai bà Thành Hoàng Triều Sơn là ai?

Chúng tôi rà soát tư liệu về làng gốc Bạch Câu Nga Sơn Thanh Hóa của Triều Sơn. Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi tôn thần do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn và Quản giám bách thần tri điện hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng tả, năm Vĩnh Hựu thứ 3 [1737]. Hiện “Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi” do dòng họ Hỏa ở làng Quang Đức lưu giữ. Nguyệt Nga hoàng phi tên thật là Hỏa Thị Ninh Thuận, hiệu Nguyệt Nga nương. Bà là con gái của ông Hỏa Đức Lương gốc ở đảo Đông Hải và bà Hoàng Thị Duyên, vùng Bạch Câu. Bà Duyên mơ thấy một tiên ông cho bà hai quả đào tiên. Bà ăn hết hai quả đào thì ông lão biến mất. Từ đấy bà Duyên thụ thai, năm sau, ngày lành tháng 9 năm năm Kỷ Dậu (1429) bà sinh đôi hai cô con gái. Cô chị là Hỏa Thị Ninh Khương, hiệu là Nguyệt Diệu nương và cô em là Hỏa Thị Ninh Thuận, hiệu là Nguyệt Nga nương. Hai nàng tư chất thông minh, nhan sắc và dung mạo hơn người. Ông Hỏa Đức Lương xuất thân nghề sông nước nhưng cũng rất giỏi võ nghệ nên ông đem nghề võ truyền dạy cho cô con gái. Hai nàng đều làu thông võ nghệ gia truyền, lại được học văn chương kinh sử, nên hai nàng họ Hỏa nổi tiếng tài sắc trong vùng. Thời vua Lê Nhân Tông (1443 - 1459) có giặc Chiêm Thành vào cướp phá. Quân vua đi đánh giặc. Khi qua châu thị Nga Sơn, hai chị em họ Hỏa cùng nhiều người Nga Sơn tòng quân, trở thành hai nữ tướng tài ba và xinh đẹp. Hai bà hiến kế lập quán bên đường cho giặc thấy mà không đề phòng gì, rồi thừa cơ đánh úp. Quả nhiên giặc trúng kế. Sau đó họ hiến kế giả dạng quân lính Chiêm Thành để nhập thành làm kế nội công… Quân vua bắt sống được vua Chiêm Thành đem về triều. Khi nhà vua gặp hai nữ tướng họ Hỏa, biết chiến công của họ, nhà vua rất “ngưỡng mộ” truyền “nhập cung”, về sau hai bà thành hoàng phi. Năm Đinh Sửu niên hiệu Diên Ninh thứ tư, Nguyệt Nga Hoàng phi lại về thăm quê. Ngày 13 - 3, từ trong bến phường trông ra cửa sông Nga Giang, đã thấy rõ cờ hiệu của thuyền Hoàng phi. Bỗng trời đất tối sầm, nổi giông tố, sóng biển cao, nhấn chìm thuyền Hoàng phi… Ngựa trạm chạy tin khẩn, nhà vua nghe tâu đau đớn, lệnh tiếp tục truy tìm và lập đàn cầu đảo. Ba ngày sau thi thể Nguyệt Nga Hoàng phi nổi lên ngay cửa Nga Giang, thần sắc vẫn tươi như khi còn sống. Người ta vớt thi thể Hoàng phi lên đưa về Minh Đang quàn tang, thiết đàn tế ba ngày, rồi an táng tại xứ Qua Ty (nay thuộc làng Trung Nghĩa, xã Nga Trung), phần mộ tọa Tốn hướng Càn (đông nam - tây bắc). Tượng Hoàng phi Nguyệt Nga được nghệ nhân tạc bằng gỗ trầm hương, sơn son thếp vàng. Nhà vua sắc phong: Đương cảnh thành hoàng Trinh hòa thục mỹ nhụ minh dục hành thuần nhất công chúa. Lại gia phong: Hỏa Quý Thị Nương hiệu Từ Thuận cung phi đệ tứ Chiêu linh phu nhân thượng đẳng tôn thần. Nguyệt Nga Hoàng phi được sắc phong Thành Hoàng làng ngày15 - 3 Đinh Sửu (1457) Diên Ninh năm thứ tư (Nguồn: Thứ 7 ngày 12/01/20139/17/14 baothanhhoa).

Thánh tích phù hợp chính sử

Tra cứu Đại Việt sử ký toàn thư được biết thời vua Lê Nhân Tông có những cuộc chiến tranh Chiêm - Việt: “Giáp Tý, [Thái Hòa] năm thứ 2 [1444]… Mùa hạ, tháng 5, chúa Chiêm Thành là Bí Cai vào cướp thành châu Hóa, cướp bắt nhân dân. Sai Nhập nội kiểm hiệu thái bảo Lê Bôi và Tổng quản Lê Khả đem 10 vạn quân đi đánh” (sđd, tập II, tr. 355). “Ất Sửu, [Thái Hòa] năm thứ 3… Mùa hạ, tháng 4, Chiêm Thành vào cướp thành An Dung của châu Hóa. Tháng 5, gặp nước lũ nên thua to… Tháng 6… ngày 25, sai bọn Nhập nội kiểm hiệu tư đồ bình chương sự Lê Thận, Nhập nội đô đốc Lê Xí đi đánh Chiêm Thành… Tháng 12, sai Bình chương sự Lê Khả đi đánh Chiêm Thành” (sđd, tập II, tr. 355). Hai năm lại có 3 cuộc Nam chinh, với tướng giỏi và quân thường trực. Nhưng năm Bính Dần triều đình Lê Nhân Tông, có tuyển binh ồ ạt và mở chiến dịch lớn: “Bính Dần, [Thái hòa] năm thứ 4 [1446]… Mùa Xuân, tháng giêng, đúng kỳ hội quân lớn, chọn người khỏe mạnh đi đánh Chiêm Thành. Sai dân phu vận chuyển lương thực tới chứa ở huyện Hà Hoa.

Ngày 22, sai bọn Nhập nội đô đốc bình chương Lê Thụ, Lê Khả, Nhập nội thiếu phó tham dự triều chính Lê Khắc Phục đem hơn 60 vạn quân đi đánh Chiêm Thành. Vua thấy chúa Chiêm Thành là Bí Cai nhiều lần dốc quân cả nước vào cướp, cho nên sai đi đánh.

Tháng 2… các quân của bọn Lê Thụ đến các xứ Ly Giang, Đa Lang, Cổ Lũy mở thông đường thủy, dựng đắp thành lũy để đánh nhau với giặc, phá tan giặc, thừa thắng đánh thẳng đến cửa biển Thi Nại.

Mùa hạ tháng 4 ngày 25, các quân của bọn Lê Thụ tiến công thành Chà Bàn phá tan quân giặc, bắt được chúa nó là Bí Cai và các phi tần, bộ thuộc, ngựa voi vũ khí, cùng các hàng tướng rồi đem quân về.

Tháng 6, đem chúa Chiêm Thành Bí Cai làm lễ dâng tù cáo thắng trận ở Thái Miếu. Đại xá thiên hạ…”
(sđd, tập II, tr. 356)

Qua dẫn liệu trên, các nội dung trong Thánh tích Nguyệt Nga Hoàng phi tôn thần do Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn về cơ bản là khả tín. Chỉ hai chi tiết là vua Lê Nhân Tông thân chinh và “phải lòng” hai chị em họ Hỏa là không đúng. Thật vậy, chiến dịch năm 1446 nhà vua mới 6 tuổi, sử không ghi chép sự kiện nhà vua thân chinh và tất nhiên không có việc nhà vua qua Nga Sơn và ưa hai chị em họ Hỏa. Chỉ có khả năng khi về Thăng Long, triều đình thấy hai chị em nữ tướng xinh đẹp và có tài, có chiến công và vua trẻ rất mến mộ, nên triều đình cho nhập cung theo kiểu tảo hôn. Việc tảo hôn trong triều Lê Nhân Tông từng xảy ra, sử chép: “Mậu Thìn [Thái Hòa] năm thứ 6 [1448]… Tháng 11, đem chị của vua là Vệ Quốc trưởng công chúa gả xuống cho Lê Quát, con trai Thái úy Lê Thụ. Lúc ấy công chúa mới có 10 tuổi, câm không nói được. Xuống chiếu cho Tư khấu Trịnh Khắc Phục làm chủ việc hôn lễ.” (sđd, tập II, tr. 366).

Tại sao làng Triều Sơn có thành hoàng là hai thần nữ và tiền khai canh đứng đầu là họ Hoàng?

Trong đoàn quân Nam chinh, ngoài hai bà nữ tướng họ Hỏa, còn có ông tướng họ Hoàng, cậu của hai bà, cùng bốn người con trai họ Hoàng làm bộ tướng. Có khả năng hai bà được giao đồng chỉ huy một đội quân mà tướng sĩ đa phần là người đồng hương Bạch Câu của hai bà. Thường đoàn quân Nam chinh, vào dừng chân ở Hóa Châu, bổ sung lương thảo, nên có khả năng đội quân do hai nữ tướng trẻ họ Hỏa, bộ tướng gồm năm cha con họ Hoàng đã đóng quân ở vùng đồi bờ bắc sông Bạch Yến, tây sông Hương [Linh Giang]. Về sau, khi khải hoàn, ông cậu họ Hoàng và bốn người con trai có khả năng ở lại để khai hoang lập ấp, kiểu “ngụ binh ư nông”, lập thành làng Triều Sơn. Ở 4 giáp ở làng Triều Sơn, dân sở tại đều thừa nhận tiền khai canh đứng đầu là ngài Hoàng quí công cùng với 4 người con trai là Hoàng nhất lang, Hoàng nhị lang, Hoàng tam lang, Hoàng tứ lang. Khi yên giặc, các vị tướng cùng quân lính đồng hương lại về quê gốc Bạch Câu Nga Sơn, vận động thân bằng quyến thuộc vào khai hoang lập ấp. Khi làng gốc Bạch Câu đã có thành hoàng là nhân thần Nguyệt Nga Hoàng phi, dân làng Triều Sơn mới thành lập, đã tôn Hai Hoàng phi họ Hỏa làm hai vị thành hoàng nữ. Làng đã trọng thị hai nữ thành hoàng bằng cách xây dựng hai miếu giống nhau.

Miếu Thành Hoàng I - Miếu Thành Hoàng II


Thay lời kết

Làng cổ Triều Sơn với lịch sử thành lập khá độc đáo vào thời vua Lê Nhân Tông. Đặc biệt, việc thờ thành hoàng cũng lạ và hiếm, với việc phụng thờ hai nhân thần nữ, lại là hai chị em sinh đôi, vừa là hai nữ tướng có tài và cũng là hai hoàng phi của vua trẻ. Nên chăng, làng Triều Sơn đề đạt nguyện vọng lên các cấp chính quyền, các cơ quan hữu trách, lập hồ sơ công nhận năm đình, hai miếu bà Thành Hoàng của làng là những di tích lịch sử cấp quốc gia. Các công ty du lịch có thể “khai thác” tiềm năng du lịch ở Triều Sơn, tổ chức du khách hòa vào các đợt tế lễ ở đình làng Triều Sơn và bốn đình giáp, rước bài vị các nhân thần trong các cuộc tế lễ… Tạo ra những hình thức quảng diễn, tập họp thanh niên của làng tái hiện lại hai hoạt động học hành thi cử ở Văn miếu Triều Sơn và những màn thí võ có hai thiếu nữ tài sắc họ Hỏa. Nên chăng các vị phụ trách làng Triều Sơn tổ chức một cuộc về thăm làng Bạch Câu, Nga Sơn Thanh Hóa, tìm các vị chức sắc của làng cổ Bạch Câu để nhờ các vị giúp chiêm bái những di tích lịch sử, tìm hậu duệ họ Hỏa ở làng Quang Đức để giúp chụp ảnh, photocopy màu những tư liệu về sắc phong, thánh tích được ban và được soạn qua các triều Lê, Tây Sơn, Nguyễn,… để đưa về Triều Sơn, tôn trí ở đình làng hoặc ở hai miếu Thành Hoàng của làng.

T.V.Đ
(SHSDB20/04-2016)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Huế những ngày này mưa dài lê thê. Từ sáng đến tối hầu như mưa không lúc nào ngớt. Đi kèm mưa là cái lạnh rét luồn vào da thịt, làm tím tái những khuôn mặt, bàn tay, đôi chân trần đang tất tả mưu sinh trên đường phố.

  • BẠCH LÊ QUANG

    Nghệ thuật và âm nhạc nói riêng, khi vượt qua lằn ranh của hữu hạn sẽ trở thành những sấm truyền vĩnh hằng, một thứ Kinh mà con người sẽ truyền rao trong cõi nhân sinh đầy biến động.

  • HỒ THỊ HỒNG

    Vua Thiệu Trị từng nói với bề tôi rằng: “Việc dạy học là chính sự trọng đại của triều đình”(1). Nhưng với truyền thống hiếu học của nhân dân ta, từ lâu vấn đề giáo dục đã được xã hội hóa một cách sâu rộng từ trong từng gia đình, dòng họ và toàn xã hội Việt Nam.

  • (SHO). “Đã mê ớt đỏ cay nồng
    Tìm trong vị hến một dòng Hương xanh
    Ruốc thơm, cơm nguội, rau lành
          Mời nhau buổi sáng chân thành món quê”

  • PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO

    Trong chuyến đi Huế dự lễ kỷ niệm ba mươi năm Tạp Chí Sông Hương vừa rồi, tôi được Tổng Biên Tập Hồ Đăng Thanh Ngọc ghé tai thông báo: “Chị cứ đi chơi Sông Hương và thăm quan quanh cố đô Huế những chỗ chưa biết, nhưng đừng nên khám phá hết để còn có cái thôi thúc mình lần sau vô  Huế mà khám phá tiếp  nữa. Nhưng dù đi đâu các anh chị cũng đừng quên đến thăm Gác Trịnh mới khánh thành nhé, hay lắm đấy, dù bận mấy  cũng nên tranh thủ ghé thăm Gác Trịnh dù là vài phút ”.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC

    Buổi sáng, tôi ngồi trong Gác Trịnh nhìn ra ngoài cửa sổ. Bên ngoài trời đang se sắt chuẩn bị mưa, sự se sắt nằng nặng.

  • PHẠM HUY THÔNG

    Đầu năm 1986, nghĩ rằng năm nay là một năm có nhiều sự kiện trọng đại diễn ra trong nước ngoài nước, tôi e rằng kỷ niệm mùa hè 200 năm trước của Phú Xuân và của dân tộc, dù không phải là không có tầm vóc, có thể chỉ được chú ý có mức độ, - nếu có được nhắc đến.

  • LÊ HUY ĐOÀN

    Những cửa thành của Kinh thành Huế ghi dấu những sự kiện từ kinh đô thất thủ ngày (23/5 năm Ất Dậu, 1885) sau cuộc chiến không cân sức giữa phe chủ chiến của triều đình Huế với giặc Pháp rồi đến sự tàn phá của thiên tai qua trận lụt 1953 làm 4 cửa thành đổ sập, rồi lại trải mình qua chiến sự Tết Mậu Thân (1968) với bao nhiêu vết hằn của bom đạn.

  • VÕ NGỌC LAN

    Như một mặc định của thời gian khi Huế là kinh đô của cả nước và nơi đây cũng là kinh đô của những chiếc áo dài. Vì vậy con gái Huế được làm quen với tà áo dài rất sớm. Bởi khi mới sinh ra đã thấy mẹ, thấy bà, thấy những người phụ nữ chung quanh khoác trên mình chiếc áo dài.

  • LÊ PHƯƠNG LIÊN 

    …Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
    Những buổi ngày xưa vọng nói về…

                       (Đất nước - Nguyễn Đình Thi)

  • G.S. TRẦN QUỐC VƯỢNG

    Thế kỷ XVI chứng kiến sự vỡ ra của nền quân chủ quan liêu Nho giáo Việt Nam.

  • THANH TÙNG

    Tháng 10/2012, tại khách sạn Rex - thành phố Hồ Chí Minh, chiếc bánh đậu xanh Phượng hoàng vũ khổng lồ của nghệ nhân ẩm thực Tôn Nữ Thị Hà và ái nữ Phan Tôn Tịnh Hải được vinh danh Kỷ lục châu Á - do Hội Kỷ lục châu Á công nhận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC PHAN

    Ở Huế có nhiều món ngon nổi tiếng như bún bò, cơm hến, dấm nuốt, bánh khoái, bèo, nậm, lọc… điều này đã được nói nhiều. Nhưng còn nhiều chuyện có thể bạn không để ý lắm.

  • NGUYỄN HUY KHUYẾN

    Vườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Khu vườn này đã được đi vào thơ ca của các vua nhà Nguyễn như là một đề tài không thể thiếu.

  • VÕ NGỌC LAN 

    Đã từ lâu danh xưng mai Huế như một mặc định cho loài hoa mai có năm cánh với sắc vàng rực rỡ. Loài hoa mai ấy chỉ sinh trưởng trên đất Cố đô và cũng là đặc sản của vùng sông Hương núi Ngự.

  • LÊ VĂN LÂN

    Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968 với việc chiếm giữ Huế 26 ngày đêm đã tạo nên bước ngoặt lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, làm sụp đổ chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ - Ngụy, làm lung lay ý chí xâm lược của kẻ thù, buộc địch phải ngồi vào bàn đàm phán Paris.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN

    Câu chuyện này do nhà thơ Bích Hoàng (tức Hoàng Thị Bích Dư - cựu nữ sinh trườngĐồng Khánh - Huế) kể lại cho tôi nghe trực tiếp vào đầu năm 2012 tại nhà riêng của cô ở 170 phố Cầu Giấy, Hà Nội.

  • TRẦN BẠCH ĐẰNG

    Mỗi địa danh của đất nước ta chứa mãnh lực riêng rung động lòng người, từ những khía cạnh rất khác nhau. Có lẽ lịch sử và thiên nhiên vốn ghét bệnh "cào bằng", bệnh "tôn ti đẳng cấp" cho nên lưu dấu vết không theo một công thức nào cả. Quy luật khách quan ấy làm phong phú thêm đời sống nội tâm của dân tộc ta.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN

    Đề cập đến sự nghiệp cầm bút của Thượng Chi Phạm Quỳnh cần phải có một cái viện nghiên cứu làm việc trong nhiều năm mới hiểu hết được. Do hoàn cảnh lịch sử, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến mình có thể tìm hiểu một khía cạnh nào đó trong sự nghiệp to lớn của ông.

  • LTS: Đêm 30/8 vừa qua, tại Huế, Hội đồng toàn quốc họ Phạm Việt Nam tổ chức giới thiệu cuốn sách “Phạm Quỳnh - Một góc nhìn”, tập 2 do nhà sử học Nguyễn Văn Khoan biên soạn. Nhiều nhà nghiên cứu, nhiều văn nghệ sĩ tên tuổi của Huế đã đến dự và phát biểu ý kiến.