Văn học trong thời đại toàn cầu hóa - trường hợp Chăm

15:47 09/01/2012

INRASARA

1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 [endif][if gte mso 9] [endif][if gte mso 10] [endif]

Ta không thể chối bỏ hay quay lưng lại nó, mà chỉ có thể bàn cách tiếp nhận sao cho hiệu quả nhất trong môi trường văn hóa cụ thể.

Thử giải cấu trúc trường hợp câu lạc bộ bóng đá Arsenal. Câu lạc bộ có trụ sở tại London (Anh), nhưng chủ sở hữu nó có cả công dân Anh lẫn Mỹ, huấn luyện viên lại là người Pháp, tập hợp cầu thủ từ rất nhiều quốc gia khác nhau, khác đến mức có lắm bận đội hình ra sân không có một cầu thủ nào mang quốc tịch Anh. Mấy năm qua, các trận đấu tại sân vận động Emirates chạy dài hàng chữ quảng cáo Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam. Chưa hết, hàng triệu fan Arsenal rải khắp thế giới. Riêng Việt Nam, người hâm mộ lập nên website riêng Arsenal.com hoạt động xôm tụ. Đến một làng quê miền núi hẻo lánh, ta không khó bắt gặp cậu thiếu niên quần xà lỏn vận áo số 14 hò hét đám bạn trong trận cầu trên đám rẫy lồi lõm không kém gì Henry. Trận derby MU - Arsenal, rủi ro Các Pháo thủ bị Những con Quỷ đỏ cho phơi áo, cha con tôi buồn héo mặt như thể chính mình vừa thua cuộc.

Toàn cầu hóa là vậy.

Thử bước vào gia đình nhỏ người Chăm hiện đại.

Cuộc sống nông thôn khó khăn, vợ chồng dắt díu hai đứa con vào Phan Thiết, dăm năm qua. Anh chồng làm tổ trưởng Bảo hiểm Prudential, suốt ngày hết gạ gẫm khách hàng xa lạ đến truyền đạt cho chục nhân viên dưới quyền phương sách thuyết phục thân chủ bỏ tiền ra càng nhiều càng tốt mua bảo hiểm từ một hãng bảo hiểm tại đất nước Anh xa lắc lơ mình chưa hề đặt chân tới. Chị vợ là thợ may áo cao cấp xuất khẩu sang Úc, loại áo mà chồng mình không bao giờ được mặc. Tối mịt, họ cùng đi xe máy Trung quốc về nhà trọ. Hấp khoai làng bằng lò viba nhãn hiệu Mỹ, chị vợ vừa làm bếp vừa liếc sang tivi LCD sản xuất tại Hàn Quốc đang chiếu phim bộ Đài Loan trong khi anh chồng mãi hào hứng với trận bóng đá đang diễn ra tại Nam Phi được truyền trực tiếp qua kênh Thái Lan trên cái tivi nghĩa địa Nhật. Phòng bên, hai đứa con đắm mình vào trò chơi điện tử của hãng Capcom về bậc thầy Muay Thái là Sagat và đang mãi hò hét bằng tiếng Chăm độn đến nửa phần tiếng Việt. Katê năm ngoái, người bác dẫn con từ Canada về, đám nhóc tán gẫu bằng thứ tiếng Anh khiến bố mẹ hết hiểu.

Mới ba thập niên trước thôi, ông bà nội chúng suốt ngày bám đuôi trâu với quẩn quanh mảnh ruộng bạc mầu. Khi có việc hay rảnh rỗi thì sang nhà bà con láng giềng, gặp ngày lễ lạc mới được qua làng bên. Hạn hán hay lũ lụt ảnh hưởng đời sống trực tiếp mắt thấy tai nghe - rất thực. Có thiếu thốn thì qua nhà bác phú nông vay tạm đợi mùa. Hôm nay thì khác. Biến động chính trị tại các nước Bắc Phi, nạn cháy rừng ở Úc châu hay Tòa Tháp Đôi tận đất nước chú Sam sụp đổ hoặc một thay đổi quyền lực vừa xảy ra tại phiên họp Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng ảnh hưởng đến bữa cơm họ, tác động mạnh đến giá trị đồng tiền họ chắt chiu được để gửi tiết kiệm.

Thế giới đã trở thành một làng, làng toàn cầu (global village). Nhân loại bị nhồi nhét trong cái làng chật chội đó, chịu ảnh hưởng từ nó và bởi nó, không thoát ra được.

Về mặt kinh tế - chính trị - xã hội, toàn cầu hóa nguy cơ nhuộm nhân loại thành một màu đồng nhất. Riêng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau hơn? - là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn hóa (Manfred B. Steger, 2009).

Về sự thể này, hiện nay tồn tại ba quan điểm: - Toàn cầu hóa dẫn đến sự nhất thể hóa văn hóa, văn hóa trên toàn thế giới sẽ mang chung một bộ mặt; - Ở phía đối trọng, toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng phản ứng ngược: các nền văn hóa nhỏ, ngoại biên sẽ tự vệ bằng nhiều biện pháp để bảo tồn bản sắc đặc thù, họ tiếp nhận toàn cầu hóa theo cách rất riêng; - Cuối cùng là xu hướng chiết trung khuyến khích các hình thức lai tạo văn hóa, trên nền tảng bản sắc cũ, họ thâu thái những cái Khác (Others) để tạo nên nền văn hóa mới, đa tạp và độc đáo.

Còn văn học, toàn cầu hóa có là một thứ hợp lưu văn học để dẫn đến sự giống nhau của tất cả các nền văn học không? - Chắc chắn là không rồi.

Tinh thần dân tộc và tinh thần địa phương của loài người, sức đề kháng của các nền văn hóa cùng lợi ích cục bộ, vân vân… sẽ bảo lưu sự khác biệt, hoặc tạo nên những sự khác biệt mới. Xu hướng tách và nhập xảy ra đồng thời ở các dòng lưu chuyển của tư tưởng và văn hóa thế giới. Văn học không là ngoại lệ. Còn hơn thế, văn học sở hữu vũ khí riêng là ngôn ngữ mà không bộ môn nào có.

Giữa dòng lưu chuyển của thời đại toàn cầu hóa ấy, văn chương Việt Nam nhập lưu thế nào? Cụ thể hơn, các cây bút Chăm phản ứng và viết thế nào?

2.

Phản ứng trước hết và dễ nhận ra nhất là thái độ rút vào vỏ sò như là cách tự vệ của kẻ sắp bị lấy mất báu vật: nền văn học truyền thống cần phải được bảo tồn. Nhưng đâu là cái cần bảo tồn? Mười bảy thế kỉ dựng xây và vun bồi, nền văn học xa xưa chỉ còn là những mảnh vụn vương vãi khắp nơi. Lượm nhặt và lắp ghép lại những mảnh rời kia để tạo nên khuôn mặt khả dĩ nhất của nền văn học dân tộc, bộ Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển ba tập (Inrasara, 1994-1996) là thành quả bước đầu của nỗ lực dài hơi đó. Ngoài ra Tủ sách Văn học Chăm (Inrasara chủ biên) mười tập gồm 5.000 trang đang được triển khai cũng là dự án cho một tái khẳng định bản sắc.

Không dừng lại, để khẳng định bản sắc cũ trong lòng văn học Việt Nam đồng thời tạo lập một bản sắc mới, thế hệ toàn cầu hóa cần có đất riêng để chơi. Đặc san Tagalau, sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu văn hóa Chăm có mặt, đảm nhận được phần việc đó. Qua 12 kì tồn tại, đặc san trình làng nhiều cây bút triển vọng, trong đó có tác giả đã in tác phẩm riêng: Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Trà Vigia, Chế Mỹ Lan, Trà Ma Hani, Phú Đạm,…

Cuối cùng sức đề kháng còn thể hiện rõ ở không ít cây bút Chăm cương quyết sáng tác bằng tiếng dân tộc.

Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
                        dù chỉ còn một người
                                    hay ngay cả chẳng còn ai.

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Dù chịu mấy thiệt thòi, hạn chế về mọi mặt, họ vẫn bám trụ. Những Cahya Mưlơng, Jaya Hamu Tanran, Jaya Bal Riya, Đặng Tịnh, Minh Trí, Raya Raya, Inrasara, Trà Vigia, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Caramai,… thế hệ tiếp thế hệ, có thể tài năng với sự trường sức không đều, và cho dù các bài thơ chỉ có mặt lác đác, họ vẫn miệt mài với tình yêu văn chương và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ.

Rồi, website Inrasara.com ra đời năm 2007, ngoài việc in nguyên tập thơ Em, hoa xương rồng & nắng của Trà Ma Hani được Inrasara chuyển ngữ sang tiếng Chăm, cùng lúc hơn năm mươi bài thơ của Inrasara được đăng tải. Và khi kĩ thuật in ấn thuận tiện với điều kiện kinh tế cho phép, các cây bút Chăm ý thức in thành tập các sáng tác lẻ của mình. Phú Đạm gạn đục khơi trong các bài thơ cũ để làm ra Anưk kamei bhum pađiak (Người con gái xứ nắng). Tập thơ in photocopy 50 bản, phát hành vào đầu tháng 5-2009, là một nỗ lực khác nữa.

3.

Nhưng các cây bút Chăm cứ mãi tự đóng khung trong thế giới tiếng mẹ đẻ không? Chắc chắn là không rồi. Là dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam đa sắc tộc, nhà văn người Chăm không thể không sử dụng tiếng Việt. Có mấy nguyên do: Để tác phẩm của mình đến với độc giả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam được nhiều và nhanh, họ phải dùng đến tiếng Việt, là tiếng phổ thông trong in ấn và phát hành. Với cộng đồng Chăm, tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chủ đạo được sử dụng ở mọi lĩnh vực; và có thể nói, đại đa số người Chăm giỏi và sành tiếng Việt gấp nhiều lần tiếng mẹ đẻ. Sau cùng, với chính bản thân người viết - ngoài vài trường hợp cá biệt -, đa phần vẫn suy nghĩ bằng tiếng Việt, việc diễn đạt ý tưởng qua tiếng Việt với họ chắc chắn sẽ thoải mái hơn.

Như vậy, để nhập lưu văn chương Việt Nam đương đại, các cây bút Chăm không thể chối từ phương tiện diễn đạt kia. Tháp nắng của Inrasara xuất bản năm 1996 được xem là một cách khởi động, nhưng chỉ khi đặc san Tagalau ra đời năm 2000, các cây bút người Chăm viết tiếng Việt mới nhập cuộc thực sự. Hàng loạt tên tuổi xuất hiện và tìm được giọng điệu riêng. Trên nền bản sắc cũ, họ biết tiếp nhận các trào lưu văn chương mới, các thủ pháp mới, “lai ghép” để tạo nên bản sắc mới.

Họ biết làm mới từ thể thơ cho tới ngôn ngữ và thi ảnh, từ thủ pháp cho đến cảm thức hay cách xuất hiện. Đó là cách thức phi tâm hóa trong nhận thức và thể hiện đẫm chất hậu hiện đại (Inrasara, 2009).

Thế nhưng, khác với hậu hiện đại “bắt đầu từ giới trí thức và thường cũng chỉ dừng lại ở giới trí thức, thậm chí giới trí thức khá cao cấp. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa, ngược lại, dấy lên ngay từ đời sống hàng ngày của hầu như tất cả mọi người, từ các siêu cường đến các quốc gia đang phát triển, từ thành thị đến nông thôn, từ những người có học đến giới bình dân” (Nguyễn Hưng Quốc, 2008).

4.

Câu chuyện 40 năm trước, ngồi lớp Chín, tôi từng tập tọng làm thơ bằng tiếng Pháp, vì nghĩ rằng đó là thứ ngôn ngữ qua đó các sáng tác của tôi dễ đến với thế giới rộng lớn. Sau non một năm tôi đã dừng lại, vì… bất lực. Sự thể không nói lên điều gì khác ngoài tinh thần dân tộc của tuổi trẻ tôi.

Hôm nay đã khác, đứa con tôi đang thoải mái diễn đạt ý tưởng qua thơ, tản văn bằng tiếng Anh. Và chắc chắn, trong môi trường toàn cầu hóa, bạn trẻ ấy sẽ không dừng lại. Đó là phương cách ngắn nhất nhập cuộc thế giới hiện tại. Tại sao? Người Chăm hiện nay cư trú nhiều địa phương khác nhau trên đất nước Việt Nam, nói và viết đang dần tách rời nhau; cộng đồng Chăm hải ngoại sử dụng ngôn ngữ bản địa khác nhau. Do đó, tiếng Anh sẽ là phương tiện khả dĩ nhất kết nối tất cả họ lại, nếu muốn.

Còn với văn chương? Có thể nói, nếu hậu hiện đại trang bị cho nhà văn Chăm cảm thức mới, thì toàn cầu hóa cung ứng cho họ mọi phương tiện để hành động. Họ có thể “nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại” (Hoàng Ngọc-Tuấn, 2002). Jalau Anưk thôi thúc thế hệ trẻ đi tới, cũng là cách tự hối thúc:

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoãi đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích
Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với
Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe chuyện ngày xưa bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
tỏa hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình/ mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên
phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời - rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh
           
(Jalau Anưk, “Dưới vòm trời là những mái nhà”)


Phố không nuốt chửng em đâu”, thì tại sao phải ngại ngần? Jalau Anưk hỏi thế. Mưtai di kraung, mưtai di thatik/ Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei - Chết nơi biển cả sông sâu/ Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng - Xưa, ông bà Chăm đã từng nói thế. Thế hệ trẻ Chăm biết thế, và sẽ hành động theo tinh thần cái biết ấy. Toàn cầu hóa, thay vì xóa mất bản sắc Chăm, chính nó lại là một cơ hội tốt lành. Tại sao không?

Mở - thế hệ trẻ Chăm đã hết mình nhập cuộc chịu chơi. Nhưng họ sẽ về đâu, nếu không làm cuộc trở về? Bà con anh chị em họ sẽ ra sao, nếu họ một đi không trở lại?

Đường trở về
Gian nan trăm lần bước tha phương
Không chỉ đường trở về chúng ta còn làm quen với khuôn mặt quê hương
Không những bước tha phương chúng ta phải yêu thương con đường bóng tối

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Họ đã trở về. Như bạn thơ nữ từ Mỹ trở về với Aw dhai Cam áo dài Chăm quê hương. Làm thơ bằng tiếng Anh, bạn trẻ kia vẫn tổ chức dạy tiếng và chữ Chăm cho người đồng tộc ở địa phương. Hắn đi vào tận các làng quê hẻo lánh sinh hoạt cộng đồng, lập website Gilaipraung.com cho thanh niên khắp nơi Chăm gặp gỡ trao đổi,… Đó chính là nghĩ và làm theo phương châm hậu hiện đại: Think globally, act locally.

“Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương”, thế hệ nhập cuộc kia đã “gian nan” trở về. Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani đã được dựng lên tại quê nhà, dựng lên - không phải ở các trung tâm văn hóa lớn hay khu du lịch - mà giữa cộng đồng phục vụ cho cộng đồng. Với những lỉnh kỉnh xe trâu cổ, sách cổ Chăm, tác phẩm nghiên cứu về Chăm và của các tác giả Chăm, nhạc cụ đủ loại và nông ngư cụ xưa nay đã biệt tích, dệt thổ cẩm và nghề gốm, tủ sách đủ loại dành cho cộng đồng để anh nông dân có thể tạt qua tìm hiểu về nghề trong những giờ nông nhàn hay cô sinh viên về ghé vào nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp…

Tìm thấy bản sắc Chăm - nhập cuộc toàn cầu hóa - trở về với dân tộc mà vẫn mang nhân loại trong mình. Đó là biện chứng tinh thần thời hậu hiện đại. Chỉ như thế, chúng ta mới tồn tại như là tồn tại. Sẵn sàng mở cửa để hội nhập thế giới mà không sợ tự đánh mất mình.


Sài Gòn, 27-9-2011
I.R.S.R
(SH275/1-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.