Văn học trong thời đại toàn cầu hóa - trường hợp Chăm

15:47 09/01/2012

INRASARA

1. Toàn cầu hóa là một hiện thực diễn ra trên phạm vi toàn thế giới, từ hai thập kỉ qua. Một hiện thực lồ lộ trước mắt ta, bên cạnh ta, ngay trong nhà và ở chính bản thân ta, dù ta là công dân ở đất nước tiên tiến hay dù ta chỉ là một thành phần thuộc sắc dân thiểu số cư trú vùng sâu vùng xa trong một đất nước đang phát triển chưa qua giai đoạn hiện đại hóa.

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: internet

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 [endif][if gte mso 9] [endif][if gte mso 10] [endif]

Ta không thể chối bỏ hay quay lưng lại nó, mà chỉ có thể bàn cách tiếp nhận sao cho hiệu quả nhất trong môi trường văn hóa cụ thể.

Thử giải cấu trúc trường hợp câu lạc bộ bóng đá Arsenal. Câu lạc bộ có trụ sở tại London (Anh), nhưng chủ sở hữu nó có cả công dân Anh lẫn Mỹ, huấn luyện viên lại là người Pháp, tập hợp cầu thủ từ rất nhiều quốc gia khác nhau, khác đến mức có lắm bận đội hình ra sân không có một cầu thủ nào mang quốc tịch Anh. Mấy năm qua, các trận đấu tại sân vận động Emirates chạy dài hàng chữ quảng cáo Hoàng Anh Gia Lai Việt Nam. Chưa hết, hàng triệu fan Arsenal rải khắp thế giới. Riêng Việt Nam, người hâm mộ lập nên website riêng Arsenal.com hoạt động xôm tụ. Đến một làng quê miền núi hẻo lánh, ta không khó bắt gặp cậu thiếu niên quần xà lỏn vận áo số 14 hò hét đám bạn trong trận cầu trên đám rẫy lồi lõm không kém gì Henry. Trận derby MU - Arsenal, rủi ro Các Pháo thủ bị Những con Quỷ đỏ cho phơi áo, cha con tôi buồn héo mặt như thể chính mình vừa thua cuộc.

Toàn cầu hóa là vậy.

Thử bước vào gia đình nhỏ người Chăm hiện đại.

Cuộc sống nông thôn khó khăn, vợ chồng dắt díu hai đứa con vào Phan Thiết, dăm năm qua. Anh chồng làm tổ trưởng Bảo hiểm Prudential, suốt ngày hết gạ gẫm khách hàng xa lạ đến truyền đạt cho chục nhân viên dưới quyền phương sách thuyết phục thân chủ bỏ tiền ra càng nhiều càng tốt mua bảo hiểm từ một hãng bảo hiểm tại đất nước Anh xa lắc lơ mình chưa hề đặt chân tới. Chị vợ là thợ may áo cao cấp xuất khẩu sang Úc, loại áo mà chồng mình không bao giờ được mặc. Tối mịt, họ cùng đi xe máy Trung quốc về nhà trọ. Hấp khoai làng bằng lò viba nhãn hiệu Mỹ, chị vợ vừa làm bếp vừa liếc sang tivi LCD sản xuất tại Hàn Quốc đang chiếu phim bộ Đài Loan trong khi anh chồng mãi hào hứng với trận bóng đá đang diễn ra tại Nam Phi được truyền trực tiếp qua kênh Thái Lan trên cái tivi nghĩa địa Nhật. Phòng bên, hai đứa con đắm mình vào trò chơi điện tử của hãng Capcom về bậc thầy Muay Thái là Sagat và đang mãi hò hét bằng tiếng Chăm độn đến nửa phần tiếng Việt. Katê năm ngoái, người bác dẫn con từ Canada về, đám nhóc tán gẫu bằng thứ tiếng Anh khiến bố mẹ hết hiểu.

Mới ba thập niên trước thôi, ông bà nội chúng suốt ngày bám đuôi trâu với quẩn quanh mảnh ruộng bạc mầu. Khi có việc hay rảnh rỗi thì sang nhà bà con láng giềng, gặp ngày lễ lạc mới được qua làng bên. Hạn hán hay lũ lụt ảnh hưởng đời sống trực tiếp mắt thấy tai nghe - rất thực. Có thiếu thốn thì qua nhà bác phú nông vay tạm đợi mùa. Hôm nay thì khác. Biến động chính trị tại các nước Bắc Phi, nạn cháy rừng ở Úc châu hay Tòa Tháp Đôi tận đất nước chú Sam sụp đổ hoặc một thay đổi quyền lực vừa xảy ra tại phiên họp Quỹ Tiền tệ Quốc tế, cũng ảnh hưởng đến bữa cơm họ, tác động mạnh đến giá trị đồng tiền họ chắt chiu được để gửi tiết kiệm.

Thế giới đã trở thành một làng, làng toàn cầu (global village). Nhân loại bị nhồi nhét trong cái làng chật chội đó, chịu ảnh hưởng từ nó và bởi nó, không thoát ra được.

Về mặt kinh tế - chính trị - xã hội, toàn cầu hóa nguy cơ nhuộm nhân loại thành một màu đồng nhất. Riêng về mặt văn hóa, toàn cầu hóa làm cho nhân loại trên khắp thế giới trở nên giống nhau hay khác nhau hơn? - là câu hỏi thường được đặt ra trong các cuộc trao đổi về toàn cầu hóa văn hóa (Manfred B. Steger, 2009).

Về sự thể này, hiện nay tồn tại ba quan điểm: - Toàn cầu hóa dẫn đến sự nhất thể hóa văn hóa, văn hóa trên toàn thế giới sẽ mang chung một bộ mặt; - Ở phía đối trọng, toàn cầu hóa dẫn đến tình trạng phản ứng ngược: các nền văn hóa nhỏ, ngoại biên sẽ tự vệ bằng nhiều biện pháp để bảo tồn bản sắc đặc thù, họ tiếp nhận toàn cầu hóa theo cách rất riêng; - Cuối cùng là xu hướng chiết trung khuyến khích các hình thức lai tạo văn hóa, trên nền tảng bản sắc cũ, họ thâu thái những cái Khác (Others) để tạo nên nền văn hóa mới, đa tạp và độc đáo.

Còn văn học, toàn cầu hóa có là một thứ hợp lưu văn học để dẫn đến sự giống nhau của tất cả các nền văn học không? - Chắc chắn là không rồi.

Tinh thần dân tộc và tinh thần địa phương của loài người, sức đề kháng của các nền văn hóa cùng lợi ích cục bộ, vân vân… sẽ bảo lưu sự khác biệt, hoặc tạo nên những sự khác biệt mới. Xu hướng tách và nhập xảy ra đồng thời ở các dòng lưu chuyển của tư tưởng và văn hóa thế giới. Văn học không là ngoại lệ. Còn hơn thế, văn học sở hữu vũ khí riêng là ngôn ngữ mà không bộ môn nào có.

Giữa dòng lưu chuyển của thời đại toàn cầu hóa ấy, văn chương Việt Nam nhập lưu thế nào? Cụ thể hơn, các cây bút Chăm phản ứng và viết thế nào?

2.

Phản ứng trước hết và dễ nhận ra nhất là thái độ rút vào vỏ sò như là cách tự vệ của kẻ sắp bị lấy mất báu vật: nền văn học truyền thống cần phải được bảo tồn. Nhưng đâu là cái cần bảo tồn? Mười bảy thế kỉ dựng xây và vun bồi, nền văn học xa xưa chỉ còn là những mảnh vụn vương vãi khắp nơi. Lượm nhặt và lắp ghép lại những mảnh rời kia để tạo nên khuôn mặt khả dĩ nhất của nền văn học dân tộc, bộ Văn học Chăm, khái luận - văn tuyển ba tập (Inrasara, 1994-1996) là thành quả bước đầu của nỗ lực dài hơi đó. Ngoài ra Tủ sách Văn học Chăm (Inrasara chủ biên) mười tập gồm 5.000 trang đang được triển khai cũng là dự án cho một tái khẳng định bản sắc.

Không dừng lại, để khẳng định bản sắc cũ trong lòng văn học Việt Nam đồng thời tạo lập một bản sắc mới, thế hệ toàn cầu hóa cần có đất riêng để chơi. Đặc san Tagalau, sáng tác - sưu tầm - nghiên cứu văn hóa Chăm có mặt, đảm nhận được phần việc đó. Qua 12 kì tồn tại, đặc san trình làng nhiều cây bút triển vọng, trong đó có tác giả đã in tác phẩm riêng: Đồng Chuông Tử, Tuệ Nguyên, Trà Vigia, Chế Mỹ Lan, Trà Ma Hani, Phú Đạm,…

Cuối cùng sức đề kháng còn thể hiện rõ ở không ít cây bút Chăm cương quyết sáng tác bằng tiếng dân tộc.

Không ít bạn trách tôi mất giờ cho thơ tiếng Chăm
có bao lăm kẻ đọc? Rồi sẽ còn ai nhớ?
nhưng tôi muốn lãng phí cả đời mình cho nó
dù chỉ còn dăm ba người
                        dù chỉ còn một người
                                    hay ngay cả chẳng còn ai.

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Dù chịu mấy thiệt thòi, hạn chế về mọi mặt, họ vẫn bám trụ. Những Cahya Mưlơng, Jaya Hamu Tanran, Jaya Bal Riya, Đặng Tịnh, Minh Trí, Raya Raya, Inrasara, Trà Vigia, Phú Đạm, Jaya Thuksiam, Caramai,… thế hệ tiếp thế hệ, có thể tài năng với sự trường sức không đều, và cho dù các bài thơ chỉ có mặt lác đác, họ vẫn miệt mài với tình yêu văn chương và tình yêu ngôn ngữ mẹ đẻ.

Rồi, website Inrasara.com ra đời năm 2007, ngoài việc in nguyên tập thơ Em, hoa xương rồng & nắng của Trà Ma Hani được Inrasara chuyển ngữ sang tiếng Chăm, cùng lúc hơn năm mươi bài thơ của Inrasara được đăng tải. Và khi kĩ thuật in ấn thuận tiện với điều kiện kinh tế cho phép, các cây bút Chăm ý thức in thành tập các sáng tác lẻ của mình. Phú Đạm gạn đục khơi trong các bài thơ cũ để làm ra Anưk kamei bhum pađiak (Người con gái xứ nắng). Tập thơ in photocopy 50 bản, phát hành vào đầu tháng 5-2009, là một nỗ lực khác nữa.

3.

Nhưng các cây bút Chăm cứ mãi tự đóng khung trong thế giới tiếng mẹ đẻ không? Chắc chắn là không rồi. Là dân tộc thiểu số trên đất nước Việt Nam đa sắc tộc, nhà văn người Chăm không thể không sử dụng tiếng Việt. Có mấy nguyên do: Để tác phẩm của mình đến với độc giả 54 dân tộc trên đất nước Việt Nam được nhiều và nhanh, họ phải dùng đến tiếng Việt, là tiếng phổ thông trong in ấn và phát hành. Với cộng đồng Chăm, tiếng Việt vẫn là ngôn ngữ chủ đạo được sử dụng ở mọi lĩnh vực; và có thể nói, đại đa số người Chăm giỏi và sành tiếng Việt gấp nhiều lần tiếng mẹ đẻ. Sau cùng, với chính bản thân người viết - ngoài vài trường hợp cá biệt -, đa phần vẫn suy nghĩ bằng tiếng Việt, việc diễn đạt ý tưởng qua tiếng Việt với họ chắc chắn sẽ thoải mái hơn.

Như vậy, để nhập lưu văn chương Việt Nam đương đại, các cây bút Chăm không thể chối từ phương tiện diễn đạt kia. Tháp nắng của Inrasara xuất bản năm 1996 được xem là một cách khởi động, nhưng chỉ khi đặc san Tagalau ra đời năm 2000, các cây bút người Chăm viết tiếng Việt mới nhập cuộc thực sự. Hàng loạt tên tuổi xuất hiện và tìm được giọng điệu riêng. Trên nền bản sắc cũ, họ biết tiếp nhận các trào lưu văn chương mới, các thủ pháp mới, “lai ghép” để tạo nên bản sắc mới.

Họ biết làm mới từ thể thơ cho tới ngôn ngữ và thi ảnh, từ thủ pháp cho đến cảm thức hay cách xuất hiện. Đó là cách thức phi tâm hóa trong nhận thức và thể hiện đẫm chất hậu hiện đại (Inrasara, 2009).

Thế nhưng, khác với hậu hiện đại “bắt đầu từ giới trí thức và thường cũng chỉ dừng lại ở giới trí thức, thậm chí giới trí thức khá cao cấp. Ảnh hưởng của toàn cầu hóa, ngược lại, dấy lên ngay từ đời sống hàng ngày của hầu như tất cả mọi người, từ các siêu cường đến các quốc gia đang phát triển, từ thành thị đến nông thôn, từ những người có học đến giới bình dân” (Nguyễn Hưng Quốc, 2008).

4.

Câu chuyện 40 năm trước, ngồi lớp Chín, tôi từng tập tọng làm thơ bằng tiếng Pháp, vì nghĩ rằng đó là thứ ngôn ngữ qua đó các sáng tác của tôi dễ đến với thế giới rộng lớn. Sau non một năm tôi đã dừng lại, vì… bất lực. Sự thể không nói lên điều gì khác ngoài tinh thần dân tộc của tuổi trẻ tôi.

Hôm nay đã khác, đứa con tôi đang thoải mái diễn đạt ý tưởng qua thơ, tản văn bằng tiếng Anh. Và chắc chắn, trong môi trường toàn cầu hóa, bạn trẻ ấy sẽ không dừng lại. Đó là phương cách ngắn nhất nhập cuộc thế giới hiện tại. Tại sao? Người Chăm hiện nay cư trú nhiều địa phương khác nhau trên đất nước Việt Nam, nói và viết đang dần tách rời nhau; cộng đồng Chăm hải ngoại sử dụng ngôn ngữ bản địa khác nhau. Do đó, tiếng Anh sẽ là phương tiện khả dĩ nhất kết nối tất cả họ lại, nếu muốn.

Còn với văn chương? Có thể nói, nếu hậu hiện đại trang bị cho nhà văn Chăm cảm thức mới, thì toàn cầu hóa cung ứng cho họ mọi phương tiện để hành động. Họ có thể “nhảy thẳng vào văn chương hậu hiện đại, mà không phải đi xuyên qua hiện đại” (Hoàng Ngọc-Tuấn, 2002). Jalau Anưk thôi thúc thế hệ trẻ đi tới, cũng là cách tự hối thúc:

Đi đi em!
phía bên kia nông hoèn hoẽn sông quê là ùn ùn sóng bể
sau hoang hoãi đêm dài là rực phố đông vui
phố cũng thích
Xaranai
phố cũng say đắm lòng tháp cổ
phố cũng rộn ràng với
Ginơng
phố cũng trải lòng với điệu múa Apsara
phố cũng hiểu Ariya
phố cũng sụt sùi nghe chuyện ngày xưa bà kể

Đi đi em! Đi đi! – Mang hình em vào phố
tỏa hơi em vào phố
chìa cả sần sùi bàn tay em vào phố
và lớn lên cùng phố
phố sẽ trải ngực mình/ mở đôi vai mình
để lúc mệt nhoài em gối ngủ giấc trinh nguyên
phố không nuốt chửng em đâu
bởi phố trú dưới vòm trời - rộng lắm!
mà ở đâu dưới vòm trời cũng có những mái nhà cho cả em, anh
           
(Jalau Anưk, “Dưới vòm trời là những mái nhà”)


Phố không nuốt chửng em đâu”, thì tại sao phải ngại ngần? Jalau Anưk hỏi thế. Mưtai di kraung, mưtai di thatik/ Thei mưtai di danaw kabaw mư-ik takai palei - Chết nơi biển cả sông sâu/ Ai đâu lại chết vũng trâu ven làng - Xưa, ông bà Chăm đã từng nói thế. Thế hệ trẻ Chăm biết thế, và sẽ hành động theo tinh thần cái biết ấy. Toàn cầu hóa, thay vì xóa mất bản sắc Chăm, chính nó lại là một cơ hội tốt lành. Tại sao không?

Mở - thế hệ trẻ Chăm đã hết mình nhập cuộc chịu chơi. Nhưng họ sẽ về đâu, nếu không làm cuộc trở về? Bà con anh chị em họ sẽ ra sao, nếu họ một đi không trở lại?

Đường trở về
Gian nan trăm lần bước tha phương
Không chỉ đường trở về chúng ta còn làm quen với khuôn mặt quê hương
Không những bước tha phương chúng ta phải yêu thương con đường bóng tối

                                                (Inrasara, Tháp nắng, 1996)

Họ đã trở về. Như bạn thơ nữ từ Mỹ trở về với Aw dhai Cam áo dài Chăm quê hương. Làm thơ bằng tiếng Anh, bạn trẻ kia vẫn tổ chức dạy tiếng và chữ Chăm cho người đồng tộc ở địa phương. Hắn đi vào tận các làng quê hẻo lánh sinh hoạt cộng đồng, lập website Gilaipraung.com cho thanh niên khắp nơi Chăm gặp gỡ trao đổi,… Đó chính là nghĩ và làm theo phương châm hậu hiện đại: Think globally, act locally.

“Suy nghĩ toàn cầu, hành động địa phương”, thế hệ nhập cuộc kia đã “gian nan” trở về. Nhà Trưng bày Văn hóa Chăm Inrahani đã được dựng lên tại quê nhà, dựng lên - không phải ở các trung tâm văn hóa lớn hay khu du lịch - mà giữa cộng đồng phục vụ cho cộng đồng. Với những lỉnh kỉnh xe trâu cổ, sách cổ Chăm, tác phẩm nghiên cứu về Chăm và của các tác giả Chăm, nhạc cụ đủ loại và nông ngư cụ xưa nay đã biệt tích, dệt thổ cẩm và nghề gốm, tủ sách đủ loại dành cho cộng đồng để anh nông dân có thể tạt qua tìm hiểu về nghề trong những giờ nông nhàn hay cô sinh viên về ghé vào nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp…

Tìm thấy bản sắc Chăm - nhập cuộc toàn cầu hóa - trở về với dân tộc mà vẫn mang nhân loại trong mình. Đó là biện chứng tinh thần thời hậu hiện đại. Chỉ như thế, chúng ta mới tồn tại như là tồn tại. Sẵn sàng mở cửa để hội nhập thế giới mà không sợ tự đánh mất mình.


Sài Gòn, 27-9-2011
I.R.S.R
(SH275/1-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.