HÀ SÂM
Ảnh: vothuat.vn
L.T.S. "ÂM NHẠC VIỆT NAM VỚI TÍNH TRUYỀN THỐNG VÀ TÍNH DÂN TỘC" (qua vận động bộ gõ và một số tiết tấu cổ truyền trong sáng tác mới) là nhan đề công trình nghiên cứu mà nhạc sĩ Hà Sâm đã bảo vệ thành công trong đợt 2 Nhà nước xét phong tặng hàm học vị cuối 1991 vừa qua. Đề tài tác giả trình bày trước Hội đồng xét duyệt là một Tập hợp công trình gồm nhiều công trình về nghệ thuật âm nhạc. Bài này là một số đoạn trích trong phần II của công trình "ÂM NHẠC VÀ TRỐNG VÕ TÂY SƠN" của Giáo sư Phó Tiến sĩ Hà Sâm. Đầu đề do chúng tôi đặt.
SÔNG HƯƠNG
Năm 1787, dưới ngọn cờ Tây Sơn, đất nước ta thống nhất toàn vẹn. Phú Xuân (Huế) là kinh đô đầu tiên của Nước Việt Nam thống nhất. Quang Trung, nhà quân sự thiên tài, người anh hùng dân tộc, một tài năng đặc biệt trên các lĩnh vực chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa xã hội.
Đường lối chính trị, quân sự có những điểm đáng chú ý, đó là việc Quang Trung đã nhìn thấy được sức mạnh của quần chúng lao động, nhìn thấy được khả năng cách mạng của các dân tộc và nhìn thấy được vai trò, vị trí của trí thức yêu nước đương thời.
Chính vì có đường lối chính trị đúng, nên Quang Trung đã vận dụng được sức mạnh tổng hợp của đương thời để có được những phương pháp đấu tranh chính trị, ngoại giao rất tế nhị, biết tập hợp lực lượng, tạo nên chiến thắng toàn diện mà ít hao người tốn của.
Nói đến quân sự thiên tài, cần chú ý sự ra đời của võ Tây Sơn, một bước phát triển mới của nền võ thuật Bình Định truyền thống.
Ai về Bình Định mà coi
Con gái Bình Định bỏ roi đi quyền.
... Cương lĩnh võ Tây Sơn có 10 điều. Đáng chú ý là môn "điểm huyệt". Trong võ phái Tây Sơn chia ra ba phái hộ gia truyền. Đó là Hồ (giòng chính của Tây Sơn), Trần (giòng Trần Quang Diệu), và Bùi (giòng Bùi Thị Xuân). Cách điểm huyệt, giải huyệt khác nhau tùy mỗi hệ phái. Muốn thông hiểu điểm huyệt phải hiểu qua y lý, biết sự tương phản của lục phủ ngũ tạng cùng tứ chi. Biết rõ thời khắc nào điểm vào thì địch thủ bị chết, bị thương nặng. Môn này không dám truyền bừa bãi, sợ có hại cho đạo đức, bởi không phải ai giỏi võ cũng có đạo đức cả...
Cùng với võ thuật Tây Sơn, còn có nhạc võ Tây Sơn, chủ yếu trống võ, một đóng góp đặc sắc của triều đại Tây Sơn vào lịch sử âm nhạc Việt Nam và truyền thống thượng võ Việt Nam.
Nghĩa quân Tây Sơn dùng nhạc võ để nâng thêm khí thế luyện tập và chiến đấu không những cho quân sĩ mà còn làm quen cho voi, ngựa thành thục hiệu lệnh để khi ra trận nghe lệnh thống nhất, sở dĩ voi trận của Tây Sơn có sức mạnh đè bẹp kẻ thù và theo Nguyễn Thế Triết thì Bùi Thị Xuân đã học được của những người quản tượng Chiêm Thành. Bùi Thị Xuân sai Chế A-Na lên rừng tìm lá cây về làm thuốc cho voi. Đem voi ra diễn võ trường luyện nghe tiếng pháo, tiếng trống, tiếng chiêng, tiếng reo hò của quân sĩ, khi lâm trận nghe pháo nổ voi không hoảng sợ, tiếng quân reo voi không lồng. Tiếng trống nổi lên voi xông lên, tiếng chiêng đánh voi lùi về, thành thói quen rồi, sau đó voi tập tiến, lui, thành một đội ngũ theo hiệu lệnh của nhạc võ Tây Sơn. Cái trống, cái chiêng là những nhạc cụ của nhạc võ Tây Sơn, đóng góp có ý nghĩa vào sự thắng lợi huy hoàng, đại phá 29 vạn quân Thanh lúc bấy giờ.
Nhạc võ Tây Sơn gồm bốn bài: bài luyện quân, bài xuất quân, bài công thành và bài khải hoàn. Bốn bài này trình diễn liên tiếp, không ngắt quãng từng bài. Cũng có nơi dùng lệnh quân và xuất quân thành một đoạn, rồi tiếp nối công thành và khải hoàn đoạn kết thúc.
Đó là các bài nhạc võ đánh theo bộ trống gồm 12 chiếc, gọi là Trống võ Tây Sơn hay còn gọi là Trống trận Quang Trung, tượng trưng cho 12 giáp và 12 tháng trong một năm.
Ngoài trống là chính ra, nhạc võ Tây Sơn còn kèm theo kèn, mõ, đàn nhị, chũm chọe thanh la (còn gọi là não bạt hay xụp xỏa) để phụ họa phối họp với giàn trống. Cũng có nơi, có chỗ dùng đến 17, 18 chiếc trống, khi diễn tấu người biểu diễn sử dụng đôi tay rất điêu luyện, nhanh nhẹn, từ đầu tay, cổ tay, cùi tay và thậm chí đôi chân cũng phối hợp để diễn tấu khi trống võ Tây Sơn chuyển sang bài "Công thành" thể hiện cuộc chiến đấu đã trở nên gay go quyết liệt.
Nhạc võ Tây Sơn vừa là một phương pháp luyện quân vừa là một nghi thức âm nhạc dùng trong các cuộc hành quân và các nghi lễ lớn dưới triều Tây Sơn.
***
Nhạc võ Tây Sơn có quan hệ đến các điệu trống chiến trong hát bội (tuồng).
Trống chiến trong bộ môn hát bội là một loại trống thuộc loại trung, đường kính khoảng 30 cm hoặc hơn, chiều cao 40 cm, được đặt trên một giá có 3 chân. Trong dàn nhạc tuồng, trống chiến xem như người chỉ huy dàn nhạc. Miền Nam gọi trống chiến là trống nhạc trong dàn nhạc lễ, gồm hai cái, gọi là một cặp: đực và cái (toong - tang), còn trong tuồng thì gọi là trống chiến, vì được sử dụng để diễn tả những cảnh chiến trận đánh nhau và chỉ sử dụng một chiếc... Một truyền thuyết dân gian khá thú vị, năm 1771, hai nghệ sĩ tuồng Nhưn Huy và Tư Thịnh là hai tướng tiên phong của nghĩa quân Tây Sơn, trong trận đánh chiếm thành Quy Nhơn, hai tướng lĩnh đã biến tiếng trống tuồng trong các đêm diễn thành nhạc võ Tây Sơn cổ vũ nghĩa quân xông lên...
Dàn trống trong biên chế dàn nhạc tuồng gồm có:
- Trống chiến: là loại trống trung, tiêu biểu của trống tuồng.
- Trống bản: (trống bộc) thường để bên trống chiến được sử dụng khi nói xây (xây thượng, xây hạ, xây tá,...) khi hát Nam bình, Nam ai.
- Trống cơm: dùng khi hát Nam bình, Nam ai, khi nói lối xây, khi lên nam xuống đảo.
- Trống chầu: tức trống cái, dùng trong nghi lễ nghênh tiếp vua quan, khi tống quân, khi tả sấm sét, gió bão (không gian), tả canh 2, canh 3... (thời gian).
- Trống quân: lớn hơn trống bộc một ít, âm cao, dùng báo hiệu một sự kiện gì xẩy ra. Nó đánh trước trống cái (trống chầu).
- Trống bồng: hai đầu loe, giữa co lại, thường dùng trong đám ma, vỗ bằng hai tay. Âm thanh nghe đục và đều đều, buồn thảm, sâu lắng...
... Quang Trung rất chú ý phát triển vốn nghệ thuật dân gian cổ truyền và rất có ý thức bảo vệ di sản văn hóa dân tộc, như cho dựng lại bia Văn Miếu ở Thăng Long và khuyến khích sự phổ biến của nghệ thuật hát bội. Ở thế kỷ 17 hát bội đã hình thành và đến thế kỷ 18 thì loại hình nghệ thuật sân khấu đặc sắc này phát triển rực rỡ tại Đàng Trong, chủ yếu tại Phú Xuân và Bình Định. Tương truyền rằng đầu thế kỷ 17, Đào Duy Từ đã khởi thảo vở tuồng Sơn Hậu nổi tiếng và đã dạy cho nhân dân Bình Định biết hát bội. Các vở tuồng thầy nổi tiếng khác như "Tam nữ đồ vương", "Giác oan", "Đào Phi Phụng"... đều ra đời trong các thế kỷ 17,18 tại Phú Xuân là nơi hát bội đặc biệt phát triển.
Lãnh tụ Tây Sơn Nguyễn Huệ rất thích nghệ thuật hát bội, ông đã cùng các tướng lĩnh của mình biểu diễn tuồng, làm phương tiện giáo dục và giải trí cho nghĩa quân.
J. Barrow, một nhà du lịch người Anh đến thăm nước ta vào thời Quang Trung, đã vẽ lại trong một cuốn "Một cuộc du hành ở Đàng Trong trong những năm 1792-1793", bức tranh màu về một cảnh hát bội. Qua bức tranh này, chúng ta thấy rõ là trình độ diễn bấy giờ khá cao, nhân vật, tổ chức sân khấu, phục trang, đạo cụ, v.v... tương đối hoàn bị (*).
Phú Xuân - Huế là cái nôi của ca nhạc Huế. Ca nhạc Huế đã hình thành và phát triển ở các thế kỷ 17, 18. Cuối thế kỷ 18 ngoài nghệ thuật tuồng (một số làn điệu bài bản trong tuồng), phần ca nhạc Huế cũng đóng góp to lớn vào vốn nghệ thuật dưới triều đại Tây Sơn. Các bài bản nổi tiếng như Lưu thủy, Kim tiền, Phú lục, Cổ bản, Nam ai, Nam bình đều được sáng tác vào thời kỳ này.
Mùa xuân Canh Tuất 1790, Quang Trung sai một ban nhạc công vũ nữ theo sứ thần sang chầu vua Càn Long (Mãn Thanh), với 10 bài tứ khúc chúc thọ nhà vua do Phan Huy Ích soạn. Mười bài đó là: Mãn đình phương, Pháp giá dẫn, Thiên thu tuế, Lâm giáng tiên, Thu ba tế, Bốc dưỡng tế, Yết kim môn, Hộ thành triều, Lạc xuân phong, Phượng hoàng các... Trong dịp lễ thượng thọ 80 tuổi của Càn Long, Quang Trung lại cử sang một đoàn nghệ thuật gồm 6 nhạc công, 6 ca công tấu diễn 10 bài ca nhạc Huế gọi là Nhạc phủ từ khúc thập điệu. Có thể đây là 10 bài tấu hay tổ khúc liên hoàn gồm 10 bài nổi tiếng trong ca nhạc Huế: Phẩm tiết, Nguyên tiêu, Bình bán, Tây mai, Liên hòa, Lưu thủy, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ, Tấu mã. Cũng trong thời Tây Sơn, khi đón sứ giả Trung Quốc, có sự tham gia biểu diễn những bài kèn và điệu trống của ty nhã nhạc. Một số ả đào cũng tham gia biểu diễn các điệu múa và bài hát ả đào. Các tướng lĩnh Tây Sơn có mặt ở Đàng Ngoài cũng rất thích nghe hát ả đào. Như vậy là hát bội, hát ả đào và ca nhạc Huế là những loại hình nghệ thuật âm nhạc và sân khấu thịnh hành thời Tây Sơn và đã góp phần làm cho đời sống văn hóa nghệ thuật thời ấy thêm đa dạng và phong phú...
H.S.
(TCSH51/09&10-1992)
-------------------------
[*] J.Barrow - A voyage to Cochinchine in the year 1792 and 1793 (London 1906).
NGUYỄN HỮU THÔNG (Dẫn liệu từ miền Trung Việt Nam)I. Có lẽ khi những đoàn lưu dân Việt từ đất Bắc trong quá trình mở cõi về Nam, họ buộc phải có những thích ứng khá táo bạo khi tiếp cận với một vùng địa sinh thái mới lạ, cùng với nền văn hóa của cư dân bản địa tiền trú, ít chất tương đồng, cho dù, tất cả đều chịu sự chi phối của không gian đặc thù Đông Nam Á.
NGUYỄN HỮU NHÀNXa xưa tục ném còn có ở nhiều nơi trong nước. Ở đất bản bộ của Vua Hùng cũng có nhiều làng, nhất là ở vùng Mường không mấy làng không tổ chức ném còn trong dịp hội xuân và hội làng.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Trong nghi lễ vòng đời người của người Tà Ôi, lễ cưới là một trong những nghi lễ quan trọng nhất và được phản ánh qua những điều cấm kị, kiêng cữ mà mỗi đôi trai gái, gia đình hai bên, những người tham gia đám cưới phải thực hiện.
TRẦN HOÀNGTrên dải bờ biển dài 340 km, từ chân Đèo Ngang đến chân đèo Hải Vân có hàng chục làng làm nghề chài lưới, đánh bắt và chế biến hải sản. Tổ tiên của cư dân các làng biển này đều có gốc gác từ các tỉnh phía Bắc.
TRẦN HOÀNG Cách đây gần 450 năm, khi đề cập tới phong tục và sinh hoạt văn hoá tinh thần của cư dân vùng đất từ Đèo Ngang trở vào, tiến sĩ Dương Văn An đã viết: “Xuân sang thì mở hội đua trải, gái lịch, trai thanh. Hè đến thì bày cuộc đấu thăm, dập dìu rộn rã nơi ca, chốn múa…” (1).
LAN PHƯƠNGHuyện Phong Thổ (còn có tên gọi Mường Tso, Chiềng Sa) tỉnh Lai Châu nằm trong vùng núi rừng hùng vĩ với mạng lưới sông suối dày đặc và những thung lũng lòng chảo màu mỡ. Nơi đây tụ hội nhiều dân tộc anh em cùng chung sống như Thái, Dao, H'Mông. Hà Nhì, Giáy... trong đó người Thái (Tay đón, hay Táy Khao) chiếm vai trò chủ thể, cư trú lâu đời với thiết chế bản mường chặt chẽ.
TRẦN HOÀNGCho đến nay cũng chưa ai biết rõ tín ngưỡng thờ cá voi ở các làng chài ven bờ biển Bình Trị Thiên xuất hiện từ bao giờ. Song việc cá voi dạt vào vùng bờ biển này thì đã được sử sách ghi lại từ cách đây gần 450 năm.
PHAN THUẬN ANLễ hội là sinh hoạt văn hoá tinh thần của một cộng đồng người và đã có từ lâu trong lịch sử của nhân loại nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng. Lễ hội phản ánh một cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hoá của mỗi địa phương và của từng quốc gia.
LÊ ANH TUẤNCứ vào độ cuối tháng 11 Âm lịch trở đi thì không khí Tết dường như đã dần dần hiện diện trong cái tiết trời, cây cỏ và trong sinh hoạt thường nhật của người Huế.
TRẦN VŨTrâu là loài động vật thích nghi với hệ sinh thái đầm lầy, ấm, ẩm thuộc khu vực Đông Nam Á. Nó là một nhân tố cấu trúc hữu cơ của nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước Việt Nam “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/ Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”...
NGUYỄN THỊ SỬUKhông dịp nào bằng lễ Aya (lễ cúng mùa, tết), trên mỗi nóc nhà người Taôi bốc lên nghi ngút thơm lừng hương vị cơm mới hoà quyện với bao món ăn đặc sản bay đi khắp núi rừng.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTrong kỷ niệm về thời thơ ấu của mỗi người ở Huế, thế nào cũng có những kỷ niệm về coi bói ngày Tết, nghĩa là có pha một chút mê tín dị đoan. Bởi vì suy cho cùng, đặc trưng của tinh thần Huế đâu có xa lạ gì với chuyện mê tín dị đoan. Người Huế nhìn vào đâu cũng thấy ngũ hành, vì vậy, thói kiêng cữ hoạc sùng bái lại càng là một thứ đặc sản Huế ở nơi họ.
NGUYỄN THỊ NGUYÊN HƯƠNGTết là một sự kiện đặc biệt trong đời sống của người Việt . Tục lệ về Tết cũng là chuyện “đất lề quê thói”, mỗi nơi có một cách riêng để đón Tết dù Tết mọi nơi cũng tương tự như nhau. Riêng với Huế, tục lệ đón Tết cũng mang những nét đặc trưng của vùng đất từng là kinh kỳ.
NGUYỄN KHẮC XƯƠNGTết miền Trung xưa có thể nói không thể thiếu vắng bài chòi. Đây là một hình thức vui chơi đấu trí cũng như tổ tôm điếm, cờ người, cờ bỏi ngoài Bắc. Bài chòi là hình thức chơi bài lá phổ biến ở các tỉnh Nam Trung bộ như Quảng Bình, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thừa Thiên, Bình Định, cũng còn gọi là hát bài chòi.
LÂM TÔ LỘCTrong di sản văn hoá dân tộc ở Việt Nam, múa dân tộc Việt có bề dày lịch sử được xác định bởi những hoa văn hình múa trên trống đồng Ngọc Lũ. Múa truyền thống nổi lên ở các lễ hội. Có người cho rằng người Việt không có thói quen sinh hoạt múa tập thể. Sử sách đã nói đến truyền thống sinh hoạt múa này.
TRẦN HOÀNGThành ngữ Việt có câu: "Vui như tết". Quả là như vậy! Tết vui không phải chỉ vì Tết là dịp để sum họp gia đình, gia tộc, để chú, bác, cậu, dì, bà con nội ngoại và xóm giềng tề tựu, gặp gỡ, thăm viếng nhau dưới một mái đình, mái nhà chung.