Truyện ngắn O' Henry

09:46 05/08/2009
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

Nhà văn O' Henry - Ảnh: inspirationline.com

Năm 1884, O' Henry chuyển đến thành phố Austin (Texas) và trở thành một nhân viên thư ký ngân hàng. Ông lập gia đình và có một thời gian hạnh phúc. Ngoài công việc, ông viết văn và đã có những truyện ngắn được đăng. Và rồi tai hoạ ập đến với ông. Vào năm 1896, ông bị buộc tội thâm lạm ngân khố. Mặc dù ông đã thề là mình vô tội, nhưng ông vẫn cảm thấy hoang mang và bỏ trốn đến Honduras (một quốc gia ở Trung Mỹ, nằm giữa Mêhicô và Nam Mỹ). Sáu tháng sau, O' Henry được tin vợ ông qua đời, ông liền trở về và bị bắt. Ông bị kết án và bị giam ở nhà tù liên bang ở Columbus (tiểu bang Ohio) gần ba năm.

Trong tù, O' Henry tiếp tục sáng tác. Lúc đầu, ông viết truyện với mục đích cảm động là kiếm tiền mua quà giáng sinh cho con gái. Chính bút hiệu O' Henry đã được ông dùng từ khi ở tù. Những năm ở tù đối với O' Henry quả là không vô vị. Đau thương và bất hạnh đã làm ông thêm đồng cảm với những người xung quanh. Ông trầm tĩnh quan sát những con người với những số phận và sau này đã thể hiện chúng trong các truyện ngắn của mình. Sau khi ra tù, vào năm 1902, O' Henry chuyển đến thành phố New York, sống bằng nghề viết văn.

New York bấy giờ là nơi quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ Mỹ. Họ đến đây từ khắp các miền của đất nước., và đều tìm thấy ở đây cái không khí trẻ trung, huyền ảo với những đường phố và toà nhà tráng lệ, và đặc biệt là cái tinh thần tự do đua tranh chứ không khắc nghiệt như ở miền Nam hay hẹp hòi như ở miền Tây. Ở New York, ngay từ đầu O' Henry đã gặp may. Ông đã ký được một hợp đồng với tờ nhật báo New York World, mỗi tuần in một truyện ngắn. Giờ đây, ông có thể sống và cống hiến cuộc đời cho văn học. Năm 1904, O' Henry xuất bản tập truyện đầu tiên Những kẻ cắp và những ông vua (Cabbages and Kings), lấy đề tài từ các nước Trung Mỹ và đã thành công rực rỡ. Tiếp theo, ông xuất bản các tập Bốn triệu người (The Four Million, 1906), Hàng đèn (The Trimmer Lamp, 1907), Trái tim miền Tây (The Heart of the West, 1907), Tiếng nói đô thị (Voice of the city, 1908), Đường định mệnh (Roads of Destiny, 1909), Quyền lựa chọn (Options, 1909), Việc làm minh bạch (Strickly Businees, 1910) và Những con quay (Whirligigs, 1910). Hai tập Đá lăn (Rolling Stones) và Những đứa trẻ bơ vơ (Waifs and Strays) được xuất bản sau khi ông mất vào năm 1910.

2. Đề tài hướng về "người độc giả trung bình"

O' Henry là một người nổi tiếng, tên ông được lấy làm giải thưởng hàng năm cho truyện ngắn Mỹ. Nhưng đối với phần lớn người Mỹ, họ vẫn nhìn nhận ông trong cái phong thái bình dân. Ông viết truyện, lúc đầu là cho vui, sau là để kiếm tiền (thời gian trong tù) và sau nữa là để sống (những năm ở New York). Về điều kiện xuất thân, ông đúng là một người bình dân và cũng giống như phần lớn người dân Mỹ thời ông, thích được đi đây đi đó, mơ ước những cuộc phiêu lưu có chừng mực, xem đô thị mới là nơi đáng sống, kiếm được nhiều tiền là điều may mắn nhưng đừng quá mạo hiểm. O' Henry sống với thế giới này, gắn bó với nó đến mức cảm giác được về nó từ những tiếng động, tiếng lanh canh của bát đĩa, tiếng gót giày ấn xuống cầu thang... Thậm chí, ông còn đoán định được đằng sau tiếng con người thở dài ẩn chứa nỗi niềm gì!

O' Henry không phải là người ưa thích mộng tưởng. Ông chỉ viết về những cái mình quen thuộc. Cũng phải nói thêm rằng ở thời O' Henry, báo chí Mỹ đã trở thành một ngành công nghiệp hùng hậu. Một tờ báo bề thế là tờ báo có số phát hành cao. Muốn được vậy phải biết hướng tới "người độc giả trung bình". O' Henry đã làm cho viết văn trở thành một nghề có lợi, nhất là ông biết cách làm vừa lòng "người độc giả trung bình". Ông cung cấp cho họ những gì họ mong muốn. Ông hiểu rõ tâm lý của những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động. Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh và cho người Mỹ có dịp để cười về mình, cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng cười gợi lên sự vị tha, nhân ái.

Người Mỹ, những người ở miền Tây, ở miền Nam và nhất là ở New York đã bước vào truyện của ông thật sống động. Ông miêu tả họ đúng như thực về lời nói và giọng điệu, suy nghĩ và ứng xử, thói quen và hành động. "Ở ông, người độc giả trung bình cuối thế kỷ nhận ra mình, hơi lý tưởng hoá, ngay cả khi mình bị giễu cợt". O' Henry không phải là kẻ khác người. Ông chỉ muốn truyện của mình được đọc, nên ông chẳng có một "thông điệp" gì, cũng chẳng có một đòi hỏi gì khi viết. Ông tự bằng lòng "làm một người mua vui".

3. Cuộc sống muôn màu. New York

Đời sống trong truyện ngắn O' Henry trải rộng và cực kỳ phong phú. Ông không tập trung vào một đối tượng nào như phần đông các nhà tiểu thuyết. Các truyện ngắn của ông là kết quả của những câu chuyện, những con người mà ông cho là lý thú và đáng ghi lại. Mà một người như ông, dấu chân đã lưu lại vô số vùng đất, thì những chuyện như vậy nhiều không kể xiết. Tuy nhiên, về không gian trong truyện O' Henry có ba điểm chính: Texas, Trung Mỹ và New York.

Texas lưu lại trong O' Henry với hai dấu ấn trái ngược. Một mặt là những năm tháng trai trẻ, khi ông đã từng làm các nghề chăn bò, xén lông cừu và còn nổi tiếng là người cưỡi ngựa giỏi, là tay súng thiện xạ. Mặt khác là những đau thương về đời tư (bị tù, vợ chết) đã làm thay đổi không chỉ cuộc sống mà cả tâm tính O' Henry. Những truyện ngắn tiêu biểu về miền Tây của O' Henry là Trái tim và chữ thập, Dấu vết của Bin Đen, Bánh rán miền Paimiênta, Ái tình theo khẩu phần... đã đem đến cho người đọc sự rung động về những cảnh sắc và con người xứ này. Chúng đầy ắp những chi tiết về tập tục trang trại cũng như về lòng can đảm và sự cao thượng của dân chăn bò (cow boy), những kẻ được mệnh danh là "ông vua của đồng cỏ, chúa của súc vật và chủ nhân của thịt bò và xương bò". Ông miêu tả thật ấn tượng vẻ đẹp của đồng quê, những đêm hè trên cánh đồng cỏ với những tiếng chim hót trong bụi cây hay là tiếng chó sói hú đến chát tai làm lũ cừu sợ run lẩy bẩy, co rúm lại với nhau... Những truyện ngắn của O' Henry về các nước Trung Mỹ được tập hợp trong tập Những kẻ cắp và những ông vua. Tập truyện đã phản ánh thật sinh động cái khu vực Trung Mỹ thường xuyên mất ổn định trong đời sống chính trị, xã hội. Ở đó, những kẻ phiêu lưu và những tay "cò" chính trị đầy ắp trong nội các chính phủ, chúng chỉ toan tính việc lập đường xe lửa và chia nhượng địa. Ở Trung Mỹ, đến tổng thống cũng sẵn sàng rũ bỏ tổ quốc và nhân dân, lỉnh đi với một vali đầy ắp tiền cùng nhân tình..

Texes và Trung Mỹ chỉ chiếm phần nhỏ trong sự nghiệp văn chương của O' Henry, khoảng 80 truyện trong số gần 600 truyện mà ông đã viết, còn phần lớn ông viết về New York. New York, thành phố lớn nhất nước Mỹ, nằm ở bờ biển phía đông, đã biến đổi hoàn toàn so với thời kỳ của nhà văn Washington Irving. Chính ở đây, vào đầu thế kỷ XX đã phát triển cái được người ta gọi là phong trào "người New York" mà W. Irving đã miêu tả có phần châm biến trong cuốn Lịch sử New York của Knickerbocker (Knickerbocker's History of New York). New York thời O' Henry được xem là "một thành phố quốc tế vĩ đại", cái cộng đồng người Hà Lan đã khai phá nên thành phố này giờ sống lọt thỏm giữa biển người tứ xứ.

New York cũng là nơi quy tụ của giới văn nghệ Mỹ. Nhà văn Frank Norris đã nhận xét: "Một trong những ước vọng lớn nhất và hối thúc nhất của các nhà văn trẻ là được đến New York". Họ bị cuốn hút bởi vẻ hoành tráng lộng lẫy cũng như vẻ bí hiểm của nó. Cái cảm giác choáng ngợp đó được miêu tả với nhiều dạng thức khác nhau, nhưng có điểm giống nhau là họ đều muốn tỏ ra mình là người New York thực thụ. Tuy nhiên, trong các nhà văn thời đó không ai hơn được O' Henry khi viết về New York. Cái làm cho ông vượt trội những người khác là khả năng miêu tả một cách sống động đời sống New York và chỉ ra được cái tinh tuý và hương vị của đô thị này. O' Henry có một tình cảm đặc biệt với New York. Ông đã từng nói: "Tôi muốn được sống suốt đời trên mỗi đường phố New York". Cái cảm giác của ông trước sự huyền bí của thành phố này và cái khát vọng muốn tìm hiểu nó đã làm tăng giá trị ở các tác phẩm của ông. O' Henry đã rất chịu khó tìm hiểu New York, tâm hồn ông luôn rung động trước mọi sự mới lạ của nó. Ông chú ý quan sát tất cả những gì đang diễn ra, cố gắng tìm thấy mối liên hệ của chúng giữa cái dòng chảy ầm ào, cuồn cuộn không ngừng nghỉ của đời sống New York. Cái cách mà O' Henry đã trình bày sự vật, từ đường phố, quán trọ, nhà hàng, công sở, công viên cho đến cột đèn đường, cái bàn ăn, cầu thang, gác chuông nhà thờ... làm cho người đọc có thể hình dung được chúng như nhà văn đã hình dung. Trong cái thế giới được xem như "bãi cát lầy, luôn luôn xê dịch" đó, con người xem ra thật nhỏ bé. "hôm nay hạt cát nổi lên mặt, ngày mai lại chìm xuống", đột ngột xuất hiện và cũng đột ngột biến mất. Các nhân vật của ông, dù khác nhau về địa vị xã hội, đời tư, nghề nghiệp... đều bị cuốn hút vào cái phễu khổng lồ đó. O' Henry hiểu rõ tất cả các hạng người, từ sang đến hèn, từ thị trưởng, tư sản, cảnh sát trưởng đến các cô gái bán kẹo, người bồi khách sạn, hoạ sĩ nghèo, nhạc công quán rượu, dân trộm cắp... Ông biết sau cánh cửa của mỗi gia đình đều có tấn kịch riêng, mỗi góc phố đều có chuyện, không phải những tiếng cười sau các bức vách chỉ có chuyện vui và công viên không phải là nơi an toàn để ngồi nghỉ hay đi dạo. Sự bất ngờ hay ngẫu nhiên nếu ở nơi khác được xem là hiếm hoi và gây được ấn tượng mạnh thì ở New York chỉ là chuyện nhỏ thoáng qua, thí dụ như kẻ ngày hôm qua còn nghèo rớt mồng tơi hôm sau đã lấy được con gái nhà triệu phú...

O' Henry say mê thành phố này, viết về nó một cách cật lực và hào hứng. Mặc dầu trong truyện ông vẫn luôn đem đến cho người đọc niềm vui sống, nhưng ta vẫn cảm thấy trong một số truyện của ông phảng phất cái tâm lý bất an. Có lẽ ông còn bị ám ảnh bởi trạng thái bị săn đuổi và chạy trốn. New York rộng lớn là thế nhưng ông vẫn cảm thấy sợ bị rủi ro. Ông đã diễn tả tâm trạng đó thật hay trong các truyện Căn buồng có sẵn đồ cho thuêHai mươi năm sau. O' Henry đến New York năm ông 40 tuổi, và ở cái tuổi này người ta không dễ gì quên được mọi chuyện. Chính đây cũng là yếu tố đã làm cho truyện ngắn của ông chân thật và ý vị hơn.

4. Nghệ thuật kể chuyện

O' Henry là người kể chuyện có tài. Phần lớn truyện ngắn của ông đều có cốt truyện giản đơn, kết thúc bất ngờ. Ông muốn đem đến cho người đọc một sự thi vị, một sự mơ mộng gần giống như trong truyện cổ tích. O' Henry thường thêm thắt các chi tiết bên ngoài để che đậy ý đồ tư tưởng, đánh lạc hướng người đọc. Và chỉ khi nào kết thúc câu chuyện, người đọc mới nắm được nội dung của điều ông muốn nói.

Khi đọc truyện ngắn O' Henry, ta nhận thấy có sự thay đổi trong mô thức trần thuật, gắn với sự thay đổi không gian nghệ thuật của truyện. Ở trong loạt truyện về Texas và Trung Mỹ, chủ yếu ông sử dụng mô thức trần thuật "kiểu vở kịch" (thuật ngữ của P. Lubbock), còn ở những chuyện về New York, ông chủ yếu sử dụng mô thức trần thuật "kiểu bức tranh". Ở mô thức thứ nhất, ta thấy các nhân vật can thiệp vào các biến cố, xung đột, bản thân chúng tạo ta tính kịch và nhà văn có thể xác định được những phẩm chất đặc trưng của tính cách nhân vật. Ở mô thức thứ hai, các nhân vật bị ngập chìm vào cái không gian đô thị ồn ào không ngưng nghỉ, và chúng bị các biến cố cuốn hút đi. Ở đây, ta chỉ bắt gặp các số phận chứ không có các tính cách. Những sáng tác của O' Henry trong thời gian ở New York nằm trong một giai đoạn quan trọng của lịch sử Mỹ, giai đoạn kinh tế Mỹ đã chuyển từ công nghiệp hoá sang tự động hoá. Đây là môi trường chủ yếu tạo ra màu sắc đám đông, và nhà văn cố gắng tạo ra trong đó những mảnh đời, những số phận với những dáng vẻ khác nhau.

O' Henry đã sống một cuộc đời trầm lặng. Đó là số phận của ông. Nhưng giữa muôn triệu người, ông không bị chìm lãng. Ông bất tử với những truyện ngắn của mình. Ông không tự tạo ra danh tiếng, mà danh tiếng tự đến với ông. Chừng nào con người còn biết cảm xúc, biết rung động, chừng ấy người ta còn tìm đọc và tôn vinh ông.

N.H.D
(183/05-04)


--------------
Tài liệu tham khảo
1. Arthur Quinn. American Fiction: A. Historical and Critical. 1936.
2. Flanklin Escher.
A. Brief History of the United States. The New American Liberary of World Literature. Inc. 1954.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ GIA NINHNgày 10 tháng 10 năm 1955, Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa bừng lên niềm vui, ngập trong cờ, hoa và nắng thu. Những chàng trai ngày “ra đi đầu không ngoảnh lại”, trải qua cuộc trường chinh ba ngàn ngày trở về trong niềm vui hân hoan và những dòng “nước mắt dành khi gặp mặt” (Nam Hà).

  • THANH TÙNGChống tham nhũng, đục khoét dân lành không chỉ là công việc của nhà chức trách mà còn ở tất cả mọi người dù ở chế độ xã hội nào. Các thi sĩ không chỉ làm thơ ca ngợi cuộc sống tình yêu, đất nước con người mà còn dùng ngọn bút thông qua nước thi phẩm của mình để lên án, vạch mặt bọn quan tham này.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNTrong lịch sử các nhà khoa bảng ở Việt , ít có gia đình nào cả ba ông cháu, cha con đều đỗ Trạng nguyên. Đó là gia đình Trạng nguyên Hồ Tông Thốc ở Kẻ Cuồi, Tam Công, Thọ Thành, Yên Thành, Nghệ An.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN1. Trước hết ta phải bàn với nhau về chữ hay, tức thế nào là một tác phẩm hay. Bởi cái hay không bất biến trong không gian và thời gian, nó vận động và biến đổi tùy theo hoàn cảnh, với những tiêu chí cụ thể khác nhau.

  • TRẦN HUYỀN SÂMRuồng bỏ - Disgrace (1) là một cuốn tiểu thuyết mang phong cách giản dị. Nhưng đó là sự giản dị của một bậc thầy về thể loại roman. Giới lý luận văn học và các chính trị gia phương Tây (2) đã đặt ra những câu hỏi có tính hoài nghi. Điều gì ở cuốn sách có độ trang khiêm tốn này đã mang lại giải Nobel cho Coetzee: Vấn đề kỹ thuật tiểu thuyết, nỗi điếm nhục về nhân cách con người, hay là bi kịch lịch sử hậu Apartheid?

  • NGUYỄN THÀNHLịch sử phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX đánh dấu bởi nhiều khuynh hướng phê bình hiện đại: phê bình ấn tượng, phê bình phân tâm học, phê bình xã hội học, phê bình mác xít, phê bình thi pháp học...

  • TRẦN LỘC HÙNG“NỒI HƠI NGUYÊN TỬ” NGĂN NGỪA THẾ CHIẾN THỨ BAChuyện kể rằng sau cuộc thử nghiệm thành công của trái bom nguyên tử đầu tiên vào năm 1949, cha đẻ của nó - Igor Vaxilevich Kurchatov - đã khóc nức nở.

  • HÀ VĂN THỊNHSố 7 là một con số huyền thoại. Nếu như tính xuất xứ xa nhất, công đầu về việc “tìm ra” số 7, thuộc về người Ai Cập, cách nay ít nhất 5.000 năm. Khi hiểu được rõ ràng việc con sông Nil chia làm 7 nhánh trước lúc đổ ra Địa Trung Hải, người Ai Cập vận “lý” để tin là nó nhất định phải hàm chứa nghĩa bí ẩn nào đó phản ánh cái “tư tưởng” triết lý của Đấng Tạo hóa.

  • TRẦN VIẾT THIỆNNăm 1987, người ta từ ngạc nhiên, ngỡ ngàng đến sững sờ trước sự trình làng của một cây bút đã vào độ tứ tuần. Tuổi bốn mươi lại là thời kỳ son sắt nhất của cây bút này, nói theo quan niệm của ông: “Đời viết văn cũng giống như đời người đàn bà”.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO - NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Trích)...

  • TRẦN NGỌC CƯChúng ta thường nghĩ rằng ở trong mỗi tâm hồn Việt Nam đều có một thi sĩ, hay nói thế khác, người Việt Nam sinh ra và lớn lên trong bầu khí văn hoá ra-ngõ-gặp-thi-nhân. Đầu đời là những câu ca dao mẹ hát ru con, cuối đời là câu kinh tiếng kệ, những lời nguyện cầu, đều là thơ cả.

  • PHẠM TUẤN ANHSau 1975, văn xuôi đóng vai trò chủ đạo trong vận động đổi mới của văn học Việt Nam. Vai trò cách tân của văn xuôi đã được khẳng định đồng thời với vị thế mới của cái hài. Cái hài, với tiếng cười hài hước (humor) phồn thực đã góp phần quan trọng trong quá trình giải thể ý thức “quần thể chính trị”, để văn học thoát khỏi cục diện nhất thể của cái cao cả, sáp tới cuộc sống muôn màu với những giá trị thẩm mĩ đa dạng.

  • TUẤN ANH“Ở đâu bản năng nghèo nàn, nhân cách cũng nghèo nàn” (Jean Lacroix)

  • NGUYỄN THẾNhững năm gần đây, vấn đề nghiên cứu về Truyện Kiều đã được các học giả Việt trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều cuộc trao đổi, thảo luận về Truyện Kiều được đưa ra trong các cuộc hội thảo chuyên ngành về ngôn ngữ, văn học và trên diễn đàn báo chí, Internet...

  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.