Truyện ngắn O' Henry

09:46 05/08/2009
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

Nhà văn O' Henry - Ảnh: inspirationline.com

Năm 1884, O' Henry chuyển đến thành phố Austin (Texas) và trở thành một nhân viên thư ký ngân hàng. Ông lập gia đình và có một thời gian hạnh phúc. Ngoài công việc, ông viết văn và đã có những truyện ngắn được đăng. Và rồi tai hoạ ập đến với ông. Vào năm 1896, ông bị buộc tội thâm lạm ngân khố. Mặc dù ông đã thề là mình vô tội, nhưng ông vẫn cảm thấy hoang mang và bỏ trốn đến Honduras (một quốc gia ở Trung Mỹ, nằm giữa Mêhicô và Nam Mỹ). Sáu tháng sau, O' Henry được tin vợ ông qua đời, ông liền trở về và bị bắt. Ông bị kết án và bị giam ở nhà tù liên bang ở Columbus (tiểu bang Ohio) gần ba năm.

Trong tù, O' Henry tiếp tục sáng tác. Lúc đầu, ông viết truyện với mục đích cảm động là kiếm tiền mua quà giáng sinh cho con gái. Chính bút hiệu O' Henry đã được ông dùng từ khi ở tù. Những năm ở tù đối với O' Henry quả là không vô vị. Đau thương và bất hạnh đã làm ông thêm đồng cảm với những người xung quanh. Ông trầm tĩnh quan sát những con người với những số phận và sau này đã thể hiện chúng trong các truyện ngắn của mình. Sau khi ra tù, vào năm 1902, O' Henry chuyển đến thành phố New York, sống bằng nghề viết văn.

New York bấy giờ là nơi quy tụ rất nhiều văn nghệ sĩ Mỹ. Họ đến đây từ khắp các miền của đất nước., và đều tìm thấy ở đây cái không khí trẻ trung, huyền ảo với những đường phố và toà nhà tráng lệ, và đặc biệt là cái tinh thần tự do đua tranh chứ không khắc nghiệt như ở miền Nam hay hẹp hòi như ở miền Tây. Ở New York, ngay từ đầu O' Henry đã gặp may. Ông đã ký được một hợp đồng với tờ nhật báo New York World, mỗi tuần in một truyện ngắn. Giờ đây, ông có thể sống và cống hiến cuộc đời cho văn học. Năm 1904, O' Henry xuất bản tập truyện đầu tiên Những kẻ cắp và những ông vua (Cabbages and Kings), lấy đề tài từ các nước Trung Mỹ và đã thành công rực rỡ. Tiếp theo, ông xuất bản các tập Bốn triệu người (The Four Million, 1906), Hàng đèn (The Trimmer Lamp, 1907), Trái tim miền Tây (The Heart of the West, 1907), Tiếng nói đô thị (Voice of the city, 1908), Đường định mệnh (Roads of Destiny, 1909), Quyền lựa chọn (Options, 1909), Việc làm minh bạch (Strickly Businees, 1910) và Những con quay (Whirligigs, 1910). Hai tập Đá lăn (Rolling Stones) và Những đứa trẻ bơ vơ (Waifs and Strays) được xuất bản sau khi ông mất vào năm 1910.

2. Đề tài hướng về "người độc giả trung bình"

O' Henry là một người nổi tiếng, tên ông được lấy làm giải thưởng hàng năm cho truyện ngắn Mỹ. Nhưng đối với phần lớn người Mỹ, họ vẫn nhìn nhận ông trong cái phong thái bình dân. Ông viết truyện, lúc đầu là cho vui, sau là để kiếm tiền (thời gian trong tù) và sau nữa là để sống (những năm ở New York). Về điều kiện xuất thân, ông đúng là một người bình dân và cũng giống như phần lớn người dân Mỹ thời ông, thích được đi đây đi đó, mơ ước những cuộc phiêu lưu có chừng mực, xem đô thị mới là nơi đáng sống, kiếm được nhiều tiền là điều may mắn nhưng đừng quá mạo hiểm. O' Henry sống với thế giới này, gắn bó với nó đến mức cảm giác được về nó từ những tiếng động, tiếng lanh canh của bát đĩa, tiếng gót giày ấn xuống cầu thang... Thậm chí, ông còn đoán định được đằng sau tiếng con người thở dài ẩn chứa nỗi niềm gì!

O' Henry không phải là người ưa thích mộng tưởng. Ông chỉ viết về những cái mình quen thuộc. Cũng phải nói thêm rằng ở thời O' Henry, báo chí Mỹ đã trở thành một ngành công nghiệp hùng hậu. Một tờ báo bề thế là tờ báo có số phát hành cao. Muốn được vậy phải biết hướng tới "người độc giả trung bình". O' Henry đã làm cho viết văn trở thành một nghề có lợi, nhất là ông biết cách làm vừa lòng "người độc giả trung bình". Ông cung cấp cho họ những gì họ mong muốn. Ông hiểu rõ tâm lý của những người cùng thời, và đề tài trong truyện của ông được lấy từ chính đời sống của họ. Ông đưa đến cho họ hai điều: tiếng cười và sự cảm động. Những truyện ngắn của ông thường hóm hỉnh và cho người Mỹ có dịp để cười về mình, cười rất độ lượng và ẩn cuối tiếng cười gợi lên sự vị tha, nhân ái.

Người Mỹ, những người ở miền Tây, ở miền Nam và nhất là ở New York đã bước vào truyện của ông thật sống động. Ông miêu tả họ đúng như thực về lời nói và giọng điệu, suy nghĩ và ứng xử, thói quen và hành động. "Ở ông, người độc giả trung bình cuối thế kỷ nhận ra mình, hơi lý tưởng hoá, ngay cả khi mình bị giễu cợt". O' Henry không phải là kẻ khác người. Ông chỉ muốn truyện của mình được đọc, nên ông chẳng có một "thông điệp" gì, cũng chẳng có một đòi hỏi gì khi viết. Ông tự bằng lòng "làm một người mua vui".

3. Cuộc sống muôn màu. New York

Đời sống trong truyện ngắn O' Henry trải rộng và cực kỳ phong phú. Ông không tập trung vào một đối tượng nào như phần đông các nhà tiểu thuyết. Các truyện ngắn của ông là kết quả của những câu chuyện, những con người mà ông cho là lý thú và đáng ghi lại. Mà một người như ông, dấu chân đã lưu lại vô số vùng đất, thì những chuyện như vậy nhiều không kể xiết. Tuy nhiên, về không gian trong truyện O' Henry có ba điểm chính: Texas, Trung Mỹ và New York.

Texas lưu lại trong O' Henry với hai dấu ấn trái ngược. Một mặt là những năm tháng trai trẻ, khi ông đã từng làm các nghề chăn bò, xén lông cừu và còn nổi tiếng là người cưỡi ngựa giỏi, là tay súng thiện xạ. Mặt khác là những đau thương về đời tư (bị tù, vợ chết) đã làm thay đổi không chỉ cuộc sống mà cả tâm tính O' Henry. Những truyện ngắn tiêu biểu về miền Tây của O' Henry là Trái tim và chữ thập, Dấu vết của Bin Đen, Bánh rán miền Paimiênta, Ái tình theo khẩu phần... đã đem đến cho người đọc sự rung động về những cảnh sắc và con người xứ này. Chúng đầy ắp những chi tiết về tập tục trang trại cũng như về lòng can đảm và sự cao thượng của dân chăn bò (cow boy), những kẻ được mệnh danh là "ông vua của đồng cỏ, chúa của súc vật và chủ nhân của thịt bò và xương bò". Ông miêu tả thật ấn tượng vẻ đẹp của đồng quê, những đêm hè trên cánh đồng cỏ với những tiếng chim hót trong bụi cây hay là tiếng chó sói hú đến chát tai làm lũ cừu sợ run lẩy bẩy, co rúm lại với nhau... Những truyện ngắn của O' Henry về các nước Trung Mỹ được tập hợp trong tập Những kẻ cắp và những ông vua. Tập truyện đã phản ánh thật sinh động cái khu vực Trung Mỹ thường xuyên mất ổn định trong đời sống chính trị, xã hội. Ở đó, những kẻ phiêu lưu và những tay "cò" chính trị đầy ắp trong nội các chính phủ, chúng chỉ toan tính việc lập đường xe lửa và chia nhượng địa. Ở Trung Mỹ, đến tổng thống cũng sẵn sàng rũ bỏ tổ quốc và nhân dân, lỉnh đi với một vali đầy ắp tiền cùng nhân tình..

Texes và Trung Mỹ chỉ chiếm phần nhỏ trong sự nghiệp văn chương của O' Henry, khoảng 80 truyện trong số gần 600 truyện mà ông đã viết, còn phần lớn ông viết về New York. New York, thành phố lớn nhất nước Mỹ, nằm ở bờ biển phía đông, đã biến đổi hoàn toàn so với thời kỳ của nhà văn Washington Irving. Chính ở đây, vào đầu thế kỷ XX đã phát triển cái được người ta gọi là phong trào "người New York" mà W. Irving đã miêu tả có phần châm biến trong cuốn Lịch sử New York của Knickerbocker (Knickerbocker's History of New York). New York thời O' Henry được xem là "một thành phố quốc tế vĩ đại", cái cộng đồng người Hà Lan đã khai phá nên thành phố này giờ sống lọt thỏm giữa biển người tứ xứ.

New York cũng là nơi quy tụ của giới văn nghệ Mỹ. Nhà văn Frank Norris đã nhận xét: "Một trong những ước vọng lớn nhất và hối thúc nhất của các nhà văn trẻ là được đến New York". Họ bị cuốn hút bởi vẻ hoành tráng lộng lẫy cũng như vẻ bí hiểm của nó. Cái cảm giác choáng ngợp đó được miêu tả với nhiều dạng thức khác nhau, nhưng có điểm giống nhau là họ đều muốn tỏ ra mình là người New York thực thụ. Tuy nhiên, trong các nhà văn thời đó không ai hơn được O' Henry khi viết về New York. Cái làm cho ông vượt trội những người khác là khả năng miêu tả một cách sống động đời sống New York và chỉ ra được cái tinh tuý và hương vị của đô thị này. O' Henry có một tình cảm đặc biệt với New York. Ông đã từng nói: "Tôi muốn được sống suốt đời trên mỗi đường phố New York". Cái cảm giác của ông trước sự huyền bí của thành phố này và cái khát vọng muốn tìm hiểu nó đã làm tăng giá trị ở các tác phẩm của ông. O' Henry đã rất chịu khó tìm hiểu New York, tâm hồn ông luôn rung động trước mọi sự mới lạ của nó. Ông chú ý quan sát tất cả những gì đang diễn ra, cố gắng tìm thấy mối liên hệ của chúng giữa cái dòng chảy ầm ào, cuồn cuộn không ngừng nghỉ của đời sống New York. Cái cách mà O' Henry đã trình bày sự vật, từ đường phố, quán trọ, nhà hàng, công sở, công viên cho đến cột đèn đường, cái bàn ăn, cầu thang, gác chuông nhà thờ... làm cho người đọc có thể hình dung được chúng như nhà văn đã hình dung. Trong cái thế giới được xem như "bãi cát lầy, luôn luôn xê dịch" đó, con người xem ra thật nhỏ bé. "hôm nay hạt cát nổi lên mặt, ngày mai lại chìm xuống", đột ngột xuất hiện và cũng đột ngột biến mất. Các nhân vật của ông, dù khác nhau về địa vị xã hội, đời tư, nghề nghiệp... đều bị cuốn hút vào cái phễu khổng lồ đó. O' Henry hiểu rõ tất cả các hạng người, từ sang đến hèn, từ thị trưởng, tư sản, cảnh sát trưởng đến các cô gái bán kẹo, người bồi khách sạn, hoạ sĩ nghèo, nhạc công quán rượu, dân trộm cắp... Ông biết sau cánh cửa của mỗi gia đình đều có tấn kịch riêng, mỗi góc phố đều có chuyện, không phải những tiếng cười sau các bức vách chỉ có chuyện vui và công viên không phải là nơi an toàn để ngồi nghỉ hay đi dạo. Sự bất ngờ hay ngẫu nhiên nếu ở nơi khác được xem là hiếm hoi và gây được ấn tượng mạnh thì ở New York chỉ là chuyện nhỏ thoáng qua, thí dụ như kẻ ngày hôm qua còn nghèo rớt mồng tơi hôm sau đã lấy được con gái nhà triệu phú...

O' Henry say mê thành phố này, viết về nó một cách cật lực và hào hứng. Mặc dầu trong truyện ông vẫn luôn đem đến cho người đọc niềm vui sống, nhưng ta vẫn cảm thấy trong một số truyện của ông phảng phất cái tâm lý bất an. Có lẽ ông còn bị ám ảnh bởi trạng thái bị săn đuổi và chạy trốn. New York rộng lớn là thế nhưng ông vẫn cảm thấy sợ bị rủi ro. Ông đã diễn tả tâm trạng đó thật hay trong các truyện Căn buồng có sẵn đồ cho thuêHai mươi năm sau. O' Henry đến New York năm ông 40 tuổi, và ở cái tuổi này người ta không dễ gì quên được mọi chuyện. Chính đây cũng là yếu tố đã làm cho truyện ngắn của ông chân thật và ý vị hơn.

4. Nghệ thuật kể chuyện

O' Henry là người kể chuyện có tài. Phần lớn truyện ngắn của ông đều có cốt truyện giản đơn, kết thúc bất ngờ. Ông muốn đem đến cho người đọc một sự thi vị, một sự mơ mộng gần giống như trong truyện cổ tích. O' Henry thường thêm thắt các chi tiết bên ngoài để che đậy ý đồ tư tưởng, đánh lạc hướng người đọc. Và chỉ khi nào kết thúc câu chuyện, người đọc mới nắm được nội dung của điều ông muốn nói.

Khi đọc truyện ngắn O' Henry, ta nhận thấy có sự thay đổi trong mô thức trần thuật, gắn với sự thay đổi không gian nghệ thuật của truyện. Ở trong loạt truyện về Texas và Trung Mỹ, chủ yếu ông sử dụng mô thức trần thuật "kiểu vở kịch" (thuật ngữ của P. Lubbock), còn ở những chuyện về New York, ông chủ yếu sử dụng mô thức trần thuật "kiểu bức tranh". Ở mô thức thứ nhất, ta thấy các nhân vật can thiệp vào các biến cố, xung đột, bản thân chúng tạo ta tính kịch và nhà văn có thể xác định được những phẩm chất đặc trưng của tính cách nhân vật. Ở mô thức thứ hai, các nhân vật bị ngập chìm vào cái không gian đô thị ồn ào không ngưng nghỉ, và chúng bị các biến cố cuốn hút đi. Ở đây, ta chỉ bắt gặp các số phận chứ không có các tính cách. Những sáng tác của O' Henry trong thời gian ở New York nằm trong một giai đoạn quan trọng của lịch sử Mỹ, giai đoạn kinh tế Mỹ đã chuyển từ công nghiệp hoá sang tự động hoá. Đây là môi trường chủ yếu tạo ra màu sắc đám đông, và nhà văn cố gắng tạo ra trong đó những mảnh đời, những số phận với những dáng vẻ khác nhau.

O' Henry đã sống một cuộc đời trầm lặng. Đó là số phận của ông. Nhưng giữa muôn triệu người, ông không bị chìm lãng. Ông bất tử với những truyện ngắn của mình. Ông không tự tạo ra danh tiếng, mà danh tiếng tự đến với ông. Chừng nào con người còn biết cảm xúc, biết rung động, chừng ấy người ta còn tìm đọc và tôn vinh ông.

N.H.D
(183/05-04)


--------------
Tài liệu tham khảo
1. Arthur Quinn. American Fiction: A. Historical and Critical. 1936.
2. Flanklin Escher.
A. Brief History of the United States. The New American Liberary of World Literature. Inc. 1954.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".

  • BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.

  • THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

  • NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?

  • NGUYỄN VĂN HẠNH1. Từ nhiều năm nay, và bây giờ cũng vậy, chúng ta chủ trương xây dựng một nền văn nghệ mới ngang tầm thời đại, xứng đáng với tài năng của dân tộc, của đất nước.

  • HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)