Trang thơ Marina Tsvetaeva

14:27 29/04/2022


MARINA TSVETAEVA

Cuốn “Marina Tsvetaeva, Selected Poems” , xuất bản năm 1971 - Ảnh: amazon

       Marina Tsvetaeva (1892 - 1941) - nhà thơ Nga, mà cùng với Pasternak, Mandelstam, Akhmatova, được xem là bốn nhà thơ Nga vĩ đại của thế kỷ hai mươi và “một trong những tác giả nữ quan trọng nhất trong kinh điển phương Tây”.
       Những bài thơ dưới đây được lấy từ cuốn “Marina Tsvetaeva, Selected Poems”, Elaine Feinstein chuyển dịch sang Anh ngữ, Penguin Books, 1994, (pg.3-5).
                                   Hạo Nhiên dịch và giới thiệu



Tôi biết sự thật

Tôi biết sự thật - từ bỏ mọi sự thật khác!
Không cần con người bất cứ đâu trên trái đất tranh đấu.
Kìa - buổi tối, kìa, sắp đêm:
anh nói gì về nhà thơ, người tình, tướng lĩnh?


Gió giờ dìu dặt, đất đẫm sương,
tiếng gầm gào của những vì sao trên bầu trời sẽ tắt.
Và nhanh thôi tất cả chúng ta sẽ ngủ dưới mặt đất, chúng ta
kẻ không bao giờ cho phép nhau ngủ trên nó.

                                                1915


Khát khao chia xa này là gì?

Khát khao chia xa này, nỗi
khấp khởi vội vã này là gì - khi mình chỉ vừa gặp gỡ?
Tay em ôm lấy đầu vì em
nhận ra, khi nhìn vào đêm


rằng không ai đang lật giở những bức thư của chúng mình
hiểu chúng ta là nỗi bất trung trọn vẹn và
sâu thẳm ra sao,
nghĩa là: chúng ta trung thành với chính mình ra sao.

                                                                        1915


Chúng ta sẽ không thoát khỏi Địa ngục

Chúng ta sẽ không thoát khỏi Địa ngục, những chị em
nhiệt huyết của tôi, chúng mình sẽ uống nhựa đen -
chúng ta kẻ hát bài ngợi ca Chúa

bằng từng nguồn mạch sức mạnh của mình, thậm chí bằng nguồn tinh nguyên nhất,

chúng ta không tựa vào nôi hay
quay sợi mỗi đêm, và bây giờ chúng ta
bị mang đi bởi một con tàu chao đảo
dưới những vạt áo choàng không tay,


chúng ta mặc mỗi sáng
lụa Trung Hoa hảo hạng, và chúng ta sẽ
hát bài ca Thiên đàng bên
ngọn lửa trại những tên cướp,


những người đàn bà thêu thùa cẩu thả, (tất cả
những đồ khâu vá của ta rách rời), vũ công,
nhạc công, đứng trên những đường ống: chúng ta là
nữ hoàng của cả thế giới!


lúc đầu chỉ che phủ bằng rẻ rách
rồi bằng những vì sao trong tóc, trong
tù và ở những bữa tiệc chúng ta
đánh đổi thiên đàng,


trong những đêm đầy sao, trong vườn
táo Địa đàng.

- Những cô gái hiền lành, những người chị em yêu dấu của tôi,
chúng ta chắc chắn tìm thấy mình ở Địa ngục!

                                                            1915

(TCSH397/03-2022)



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Yevgeny Yevtushenko - Odysseas Elytis

  • Maiakôpxki là nhà thơ lớn của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới và là nhà thơ lớn của nhân loại thế kỷ XX.Thơ của ông biểu hiện nhiệt tình công dân mãnh liệt, là tiếng hát của tương lai, của chủ nghĩa Cộng sản, và tiếng thét căm giận đả phá những mặt tiêu cực trong cuộc sống Xô Viết lúc bấy giờ. Nhà thơ của quãng trường, nhà thơ hùng biện, đó là những từ để mệnh danh người nghệ sĩ kiểu mới này. Ông rất ít viết về thơ tình. Trong dịp kỷ niệm 30 năm sinh của nhà thơ. Tạp chí Văn học Xô Viết ngoài việc giới thiệu những bài thơ chủ đề công dân và xã hội nổi tiếng, còn giới thiệu 2 bài thơ tình của ông. Tâm hồn nồng nhiệt, đẩy đến tận cùng mọi sự, ngay cả lý tưởng hay tình yêu đó là bản chất của thơ Maia.

  • Hải Kỳ - Đỗ Hoàng - Nguyễn Khắc Thạch

  • Pimen Pan-tren-cô _ Xéc-gây Da-côn-ni-cốp _ Anatôn Grêtanikốp

  • Mắc-xim Tăng-kơ (tên thật là Ép-ghê-ni Skuốc-kô) là nhà thơ của đồng ruộng, đất đai, đường sá, khắp các vùng của lãnh thổ Liên bang Xô-viết và rất nhiều nước khác.

  • XERGÂY ÊXÊNHIN(Trích từ “Những khúc bi ca” và tuyển tập thơ Xergây Êxênhin)

  • Ngày 22 tháng 10 năm 1987 Viện Hàn lâm Thụy Điển công bố tên người được tặng giải thưởng Nôben văn học - nhà thơ Nga sống ở Mỹ Iosif Brodsky. I.Brodsky là nhà văn Nga thứ năm được nhận giải thưởng cao quý này. Sau I.Bunhin (1933), B.Pastemnac (1958), M. Solokhov (1965), A.Xongienhixun (1970).

  • Ludmila TatianitchevaTuổi tôi

  • OCTAVIO PAZ        Tặng các nhà thơ André Breton và Benjamin Perêt

  • LTS: Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười (7 - 11) Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của I.Bunhin, tác giả được giải Nobel 1933.

  • LTS: TOMMY OLOFSSON (1950) là một trong những nhà thơ "sung mãn" nhất Thụy-Điển hiện nay, tác giả bảy tập thơ (tính đến 1991). Ông còn là một chuyên gia về James Joyce, có bằng tiến sĩ văn chương của đại học Lund, tác giả hoặc người biên tập nhiều công trình biên khảo, và nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng của nhật báo Thụy Điển Svenska Dagbladet. Bản dịch Thơ nguyên sơ dưới đây dựa theo bản Anh văn của Jean Pearson: Elemental Poems (White Pine Press, N.Y. 1991)

  • WISLAWA SZYMBORSKA (Nữ nhà thơ Ba Lan. Giải Nobel văn học 1996)

  • FRED MARCHANT (Mỹ)                 Tặng Diệu LinhTựa đề của bài thơ là viết sau ba mươi năm Mậu Thân. Ba mươi cái cúi đầu bắt buộc về những mất mát, những nỗi đau do chiến tranh gây ra.

  • Thi sĩ viết về những điều vi tế của cuộc sống, từ chối nói về mình và cả những người nổi tiếng. Cả cuộc đời, thi sĩ chỉ nhắc đến Thomas Mann một lần trong thơ như sự thiếu vắng con người - sự lưu lạc trên chính quê hương, tâm hồn mình. Và Brodsky, một tâm hồn bị lệch kênh, bị trục xuất… trong diễn văn Nobel. Và cả dòng sông tư nghị: Heraclite.Szymborska, nữ sĩ Ba Lan, là một bậc thầy về thơ nghị luận, viết thơ cũng như cả tiểu luận là để trả lời cảm xúc và câu hỏi: tôi không biết. Sinh 1923 tại Kornik, hiện sống tại Krakow. Viết khoảng 210 bài thơ và một ít tiểu luận từ 1952 đến nay. Nobel văn chương 1996 và nhiều giải thưởng danh dự khác.

  • PAVIL BUKHARAEP - IVAN SIÔLÔCỐP - IURI SMELIÔP

  • LTS: Là nhà thơ, tác giả của ba cuốn sách về thi ca. Cùng với Nguyễn Bá Chung ông đã cùng dịch tập thơ “Từ góc sân nhà em” của Trần Đăng Khoa. Ông là giáo sư Anh ngữ, Giám đốc chương trình sáng tạo viết văn của Đại học Suffolk. Ông còn là người thẩm định tác phẩm bậc thầy của Trung tâm William Joiner nghiên cứu về chiến tranh và hệ quả xã hội tại Umass Boston.Ông cũng là người giới thiệu hai cuốn sách Núi Bà Đen của Larry Heinemann và Cốm non (Green Rece) của Lâm Thị Mỹ Dạ đã được dịch ở Mỹ.

  • Baolin Cheng (Trương Bảo Lâm) là một nhà thơ thành công của “thế hệ thứ ba” các nhà thơ hiện đại Trung Quốc (thế hệ thứ nhất thuộc thời “ngũ tứ” 1919, thế hệ thứ hai được gọi là thế hệ “thơ mông lung” sau cải cách mở cửa). Hiện định cư tại San Françisco (Hoa Kỳ) với tư cách một nhà thơ song ngữ Hoa - Mỹ. Theo Paul Hoover, chủ biên cuốn “Thơ Hậu hiện đại Mỹ”, thơ Baolin Cheng sử dụng những cách thức của thơ siêu hình học- những chuyện kể nén chặt và những cấu trúc ý niệm - phục vụ cho các mục tiêu hiện thực chủ nghĩa. Những bài thơ sau đây của Baolin Cheng đã xuất bản ở Mỹ và Trung Quốc dưới hình thức song ngữ.

  • RUDYARD KIPLINGRUDYARD KIPLING (1865  Bombay - 1936 Londres) sống trong môi trường Anh-Ấn văn hóa rất cao, là một nhà văn nổi tiếng với những cuốn tiểu thuyết Le Livre de la Jungle (Cuốn sách của rừng xanh), Kim và là một nhà thơ . Thơ ông tập trung vào  chủ đề giáo dục nhân cách và đạo đức. Bài thơ NẾU (IF) dưới đây là một bài thơ nổi tiếng của ông.

  • ALLEN GINSBERG(Tôn vinh Kenneth Koch) (1)LGT: Allen Ginsberg (1926 - 1997): là một nhà thơ hậu hiện đại Mỹ nổi tiếng trong trào lưu Beat cùng với Jack Kerowack và Williams S. Burroughs. Tốt nghiệp đại học năm 1948, làm đủ thứ nghề: thủy thủ, thợ nhà in, rửa bát, điểm sách, nhân viên tiếp thị.