NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Jen học trước tôi hai năm, đàn chị. Cô là thường trú, PGY- 4, tôi là PGY- 2. Trong nghề chúng tôi, hơn nhau một năm đã là tình thầy trò, huống gì hơn hai.
Đàn anh đàn chị đi trước chỉ vẽ tận tình cho người sau, vì trong thực tế, những vị thầy chính thức chỉ giảng bài ở lớp rồi biến mất, đâu đó, khi trong phòng mổ, khi phòng mạch riêng, chỉ người đi trước mình một hai năm mới là thầy thực sự. Dù thế Jen nhỏ tuổi hơn tôi, người dong dỏng cao, tóc vàng, mắt xanh biếc, gốc Ái nhĩ lan, cứ như vừa bước ra từ một cuốn tiểu thuyết của Virginia Woolf hay là từ một ga xe lửa, ga Lyon đèn vàng, trong thơ Cung Trầm Tưởng. Trong một lần đi uống bia, vì ở nơi làm việc của tôi thường trú đàn anh bao giờ cũng dẫn đàn em đi uống bia tuần một lần, gọi là xả hơi sau nhiều đêm thức trắng, trong một lần như vậy, tôi nói ý tưởng ấy. Cô cười phá lên, hỏi thơ của ai, tôi bạo miệng dịch mấy câu thơ, chắc nàng chẳng hiểu gì thứ tiếng Anh ba nháp của tôi, nhưng cũng cười với nhau. Tóm lại đó là một thường trú thân mật, giỏi giang, tận tình. Một lần có trường hợp sinh khó, người mẹ đẻ con so, đuối sức sau cơn chuyển dạ gian khổ. Sau khi lá nhau sinh xong, tử cung co hồi kém, dù đã dùng oxytocin, lại rách vùng sinh dục phức tạp, sâu, chảy máu. Bọn sinh viên đàn anh ra về hết, tôi phải ngồi may, nhiều mũi. Tay chân tôi mỏi rời rã sau một đêm thức trắng, hôm qua chỉ kịp ăn bữa chiều nửa bữa, bụng đói meo. Vết thương phức tạp, Jen đứng phía sau lưng chỉ dẫn cho tôi. Hơi thở của cô phả vào gáy nóng ấm. Có một lúc vết thương rách sâu tinh vi quá, tôi không xử lý được, cô phải vươn tay qua vai tôi, dùng ngón tay để hướng dẫn. Sản phụ là một người đàn bà mập mạp, nhiều mỡ, tôi gắng sức kéo đường chỉ ra xa, cái kim may bất ngờ bật lên thật mạnh, đâm lút vào ngón tay trỏ bên phải của Jen.
Tôi bàng hoàng. Kim đâm gần xuyên suốt. Cô đau đớn, kêu lên một tiếng, hốt hoảng lùi lại, rồi ôm tay, không nói thêm gì nữa. Tôi dừng tay lại một lúc, chết điếng. Tôi quay mặt lại, lí nhí qua khẩu trang, nhưng Jen xua tay bảo tôi làm việc tiếp. Tôi chỉ muốn cởi áo choàng ra, ôm lấy cô mà xin lỗi. Lúc ấy trong phòng không có ai, các y tá cũng bận tíu tít. Tôi chửi thề trong bụng, không biết sao đêm trực của tôi bao giờ họ cũng thi nhau đẻ nhiều thế. Xấu hổ. Hối hận. Nhưng máu sản phụ chảy nhiều, Jen giục tôi may tiếp để cầm máu. Khi mọi chuyện đã xong, tôi đứng lên xin lỗi và hỏi thăm thì cô lắc đầu, an ủi tôi đừng quá lo lắng. Tôi liếc nhìn, khuôn mặt cô hơi tái lại, lo âu. Sau đó trên page lại gọi tôi đến trường hợp khác vì các nội trú bỏ đi phòng mổ cả. Sáng sớm hôm sau, ngớt việc, nghĩ chuyện đêm qua, càng nghĩ càng lo, tôi trở lại thăm bệnh nhân và coi hồ sơ một cách kỹ càng. Đúng như tôi đã nghi ngờ. Đó là một người phụ nữ mắc bệnh AIDS, thời ấy bệnh này vừa được phát hiện ở phương Tây chưa lâu lắm, chưa có thuốc chữa trị như bây giờ, là một cơn ác mộng đối với cả thế giới. Người nào mắc phải coi như bị án tử hình. Việc lây qua đường máu hay sinh dục khá phổ biến vì nhiều người còn chưa biết đến bệnh. Tôi đi tìm Jen, thấy cô ngồi bên cửa sổ trong cái lounge dành cho sinh viên. Cô đã làm xong các xét nghiệm máu cần thiết và đang chờ kết quả, có lẽ phải nhiều ngày, và thật ra các xét nghiệm chính phải làm trong ba tháng nữa, ngay cả khi kết quả bình thường cũng không nói được gì. Tôi được biết cô xin vắng mặt trong bệnh viện một thời gian ngắn. Rồi sau đó tôi kết thúc kỳ thực tập ở khoa sản, định bụng sẽ quay lại gặp cô, thế mà thời gian trôi đi vùn vụt, khi tôi trở lại thì đã vài tuần lễ, mùa thu đã tới, gặp toàn người mới, vì đó là một năm học mới, và tôi mất bóng của Jen từ đó.
Tôi nhớ lần quay lại sáng hôm ấy, sau lần trực chung, tần ngần đứng nhìn cái dáng của cô ngồi bên cửa sổ. Cô vừa xem hồ sơ bệnh nhân, vừa trầm tư suy nghĩ, có một vẻ buồn rầu đau đớn, một sự chịu đựng không thể tả được, trên khuôn mặt thanh tú của cô, những lọn tóc sợi nhỏ vàng hất ra sau gáy, lơ thơ trước ngực, cắt cái bóng lên bầu trời sau khung cửa mùa thu, ngoài trời lá phong vàng trong suốt như mật ong rào rạt bay qua. Cảm giác ấy làm tôi không chịu nổi. Nhiều năm sau, mỗi khi mùa thu về, nhớ lại, tôi nhận ra rằng đó là một cảm giác kỳ lạ. Vừa ngưỡng mộ vừa thương xót, nửa hối hận nửa như tình yêu, như khi bạn vừa mất đi một thứ gì quý giá, không biết làm gì để lấy lại được, tuy bảng lảng mơ hồ nhưng bạn biết là có thật.
N.Đ.T
(SHSDB35/12-2019)
VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
HIỀN LÊ
Hiroshi Sugimoto (sinh năm 1948 tại Tokyo) là nhà kiến trúc sư, nhiếp ảnh gia người Nhật.
Palomar là tác phẩm hư cấu cuối cùng của Italo Calvino (1923 - 1985), một trong những nhà văn lớn nhất của Ý ở thế kỉ 20, xuất bản tháng 11 năm 1983.
TRẦN KIÊM ĐOÀN
Nếu bình thường thì giờ nầy chúng tôi đang ở “hộp đêm” trong bụng máy bay Eva trên đường về Quê hương và đang vượt nửa sau Thái Bình Dương.
JEAN-CLET MARTIN
Trong thời điểm cách ly và tự cách ly này, thế giới tái khám phá ra chiều kích mang lại cho nó một phương hướng nhất định.
Slavoj Žižek, nhà triết học người Slovenia, được mệnh danh là “nhà triết học nguy hiểm nhất ở phương Tây” hiện nay. Ông nổi tiếng với tác phẩm Đối tượng trác tuyệt của ý thức hệ (The Sublime Object of Ideology, 1989), ở đó ông đã kết hợp quan niệm duy vật Marxist và phân tâm học Lacan để hướng đến một lý thuyết về ý thức hệ.
MARKUS GABRIEL
Trật tự thế giới bị lung lay. Một loại virus đang lây lan trên quy mô vô hình của vũ trụ mà ta không hề biết được những chiều kích thực sự của nó.
ĐỖ LAI THÚY
M. Bakhtin (1895 - 1975), nhà nghiên cứu văn học Nga - Xô viết có tầm ảnh hưởng bậc nhất ở Việt Nam. Ông là nhà lý luận tiểu thuyết. Người phát hiện/minh ra tiểu thuyết đa âm, tính đối thoại, nguyên tắc thời-không, tính nghịch dị và văn học carnaval hóa…
THÁI THU LAN
Émile Zola là một nhà văn hiện thực lớn nhất đồng thời cũng phức tạp nhất của nước Pháp ở cuối thế kỷ thứ 19, là người sáng lập lý luận về chủ nghĩa tự nhiên, là một tấm gương lao động không mệt mỏi, là một chiến sĩ có tinh thần chiến đấu dũng cảm chống chiến tranh phi nghĩa, chống quyền lực tàn bạo và bênh vực quần chúng lao động nghèo khổ.
NGUYỄN TÚ ANH - TRẦN KỲ PHƯƠNG
Trong nghệ thuật Ấn Độ cũng như nghệ thuật Chàm, hình tượng con chuột luôn mang ý nghĩa tốt đẹp, đó là con chuột nhà hay chuột nhắt (mouse), chứ không phải chuột cống.
ANĐRÂY GOCBUNỐP (Tiến sĩ ngôn ngữ học Liên Xô)
Gần đây đã có những khám phá rất có ý nghĩa ở Washington và London, trong những cuốn sách đã yên nghỉ trên các kệ sách thư viện trong cả bốn thế kỷ nay.
LƯU TÂM VŨ
hồi ký
LTS : Nhà văn Lưu Tâm Vũ sinh năm 1942, tốt nghiệp sư phạm Bắc Kinh năm 1961, sau đó dạy học nhiều năm ở Bắc Kinh. Truyện ngắn đầu tay Chủ nhiệm lớp đoạt giải thưởng truyện ngắn ưu tú toàn quốc 1978, được coi là tác phẩm mở đầu cho văn học thời kỳ mới.
Cách đây 40 năm khi nhà xuất bản Morrow and Avon chi 5 triệu đô la cho James Clavell, tác giả những cuốn tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng như Hồng Kông ngày ấy, Đại tướng quân, Whirlwind, giới xuất bản ở Mỹ choáng váng. Nhưng bây giờ tiền nhuận bút đã vượt xa kỷ lục ấy.
ALAN BURNS
William Carlos Williams cũng như bất cứ người nào, đến rất gần với việc nhận thức ra lý tưởng mới của chủ nghĩa hình tượng, nhất là trong những bài thơ như “The Great Figure” và “The Red Wheelbarrow”.
Đây là một câu chuyện về di dân được viết theo chương trình “Dự án chiếc giày” (The Shoe Project) được khởi xướng thành lập bởi tiểu thuyết gia Katherine Govier, Toronto, Canada. Chương trình này bao gồm việc giúp các phụ nữ di dân viết một câu chuyện 600 từ về kinh nghiệm di dân của mình và lên một sân khấu nhỏ để trình diễn (đọc) câu chuyện đó trước những khán giả trong vùng. “Dự án chiếc giày” được thực hiện ở Antigonish với sự giúp đỡ của tiểu thuyết gia Anne Simpson và nhà biên kịch Laura Teasdale.
NHƯ QUỲNH DE PRELLE
Tôi đã từng mơ ước về quê nhà để đọc thơ tiếng Việt, để thổn thức cùng thi ca tiếng Việt. Thế mà, ở nơi này, giữa trái tim châu Âu và trong lòng bạn bè quốc tế, tiếng Việt của tôi ngân lên giữa những nhịp điệu, những giọng nói hoàn toàn khác. Và tôi đi đọc thơ, tự bao giờ tôi cũng tự chuyển ngữ những bài thơ của chính mình với bạn đọc ở đây. Đi đọc thơ, bao điều thú vị và những mới mẻ.
HÂN QUY
(Phỏng vấn nhà báo lão thành LÉO FIGUÈRES)
PATRICIA HIGHSMITH
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Một người bạn cũ ở Mỹ kể với tôi rằng gần mười năm nay anh không đi du lịch xa, cũng không về Việt Nam, mặc dù nhớ. Tôi hỏi lý do, anh bảo vì sợ nỗi buồn chán khi phải ngồi trên máy bay mười mấy giờ.
LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.