PHAN NGỌC
Giàu (,) ba bữa, khó (,) hai niêu,
Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều
Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu.
Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu
Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức,
Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.
Ảnh: internet
1. Đây là bài thứ 3 trong số 161 bài thơ nôm của quyển Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (NXB Văn Học, Hà Nội 1983). Bài này được chọn vì xưa nay ai cũng cho là của tác giả. Việc khảo sát một tác giả xưa về bất kỳ mặt nào cũng chỉ nên bó hẹp vào một số bài rất ít gọi là tư liệu tối thiểu, và chỉ phân tích, mô hình hóa trong phạm vi ấy thôi. Khi ta đã nắm được cái tập hợp các kiểu lựa chọn tiêu biểu cho tác giả, ta sẽ dùng nó kiểm tra lại các bài còn lại để đoán định những bài còn ngờ vực và nếu cần, để sửa lại cách công thức hóa. Nói chung, các kiểu lựa chọn này sẽ lặp lại gần như nguyên vẹn ở mọi bài. Tôi giữ nguyên cách phiên, chỉ chấm câu lại cho gần cách chấm câu người xưa hơn. Chỗ nào không thể chuyển thành cách chấm câu hiện đại tôi để trong ngoặc đơn. Ta sẽ thấy chính cách chấm câu này mới sát với nghệ thuật tác giả.
2. Bài thơ là một thông báo. Phong cách thay đổi theo người nhận thông báo. Khi người nhận thông báo là độc giả mua hàng hóa, phong cách sẽ chịu ảnh hưởng của thị hiếu và thay đổi khá nhanh như dưới thời Pháp thuộc. Thời ông, thơ văn không phải hàng hóa, nên phong cách tác giả thường giữ nguyên suốt đời. Nó là triều đình thì tác phẩm sẽ mang tính tán dương, nó là bạn bè thì tác phẩm sẽ mang tính thù tạc của sinh hoạt nho sĩ, nó là bình dân thì tác phẩm sẽ có màu sắc phê phán. Các nhà thơ như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, làm thơ theo từng sự việc của đời mình. Riêng Nguyễn Bỉnh Khiêm không nhằm một đối tượng cụ thể nào. Trong số 161 bài thơ nôm của tuyển tập, 144 bài không có đề mục, những bài còn lại đều là những lời khuyên về đạo đức. Trong số 89 bài thơ chữ Hán chỉ có 13 bài thơ chủ đề cụ thể kể lại việc làm khi hành quân theo nhà Mạc hay thù tạc với bạn bè, còn nữa cũng là thơ vô đề. Độc giả của ông là toàn bộ hậu thế, nhân dân Việt Nam, kẻ mà ông tin là sẽ hiểu ông, sẽ thể tất cho một cuộc sống bất đắc dĩ của ông. Ông không thể phát huy mặt năng động chủ quan để cứu đời, cứu dân. Ông sống trong một thời nội chiến, làm người chứng kiến bất lực một xã hội đang tan rã mà hình ảnh cụ thể đã được Nguyễn Dư miêu tả trong Truyền kỳ mạn lục. Ông chỉ còn cách tự cứu lấy lương tâm của mình. Chính vì vậy con người đỗ trạng nguyên, làm quan to, được họ Mạc, họ Trịnh, họ Nguyễn sùng bái, đã từ bỏ giàu sang, danh lợi, quay về với làng xã "lấy cảnh núi sông non nước làm vui" (tựa tập thơ Am Bạch Vân).
Ông là một ẩn sĩ nhưng không phải một ẩn sĩ Ấn Độ chạy vào núi sống để thờ thần linh, không phải một ẩn sĩ Trung Quốc quay lưng với chính trị, tự thổi phồng mình, tự tôn thờ mình. Thơ ông chẳng có gì là huênh hoang của thơ triết lý Trung Quốc. Ông quay về sống trong vòng tay của làng mạc họ hàng, dạy học trò, bình dị, khiêm tốn, như cha ông chúng ta.
3. Một bài thơ thường có một tổ chức rất chặt nên khó lòng lấy một câu ở bài này để lắp vào một bài khác. Nghệ thuật của ông trái lại mang tính lắp ghép. Ông có một số mô típ lặp đi lặp lại với đôi chút thay đổi để tạo nên mọi bài thơ. Đi con đường ấy, diện mạo từng bài không rõ, không thể mang một đề mục riêng không tìm thấy ở một bài khác. Nhưng phong cách tác giả cũng không vì thế mà kém hiển nhiên,
Nếu ta thử tìm các mô típ trong số 80 bài thơ đầu là những bài không hề bị ngờ vực về mặt tác giả thì sẽ thấy bài này là sự lắp ghép của 6 mô típ.
Câu 1: Giàu (,) ba bữa; khó (,) hai niêu, tức là ta phải vui với cái nghèo. Người giàu kẻ nghèo thực tế không hơn nhau mấy.
Câu 2: Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều. Tức là con người phải bằng lòng với số phận mình.
Câu 3-4: Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu. Cuộc sống giản dị tự nó đã là hạnh phúc.
Câu 5-6: Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu. Tức là hãy tìm cái vui ở thiên nhiên, một thiên nhiên gần gũi ở ngay cạnh mình, không phải trốn đời mới thưởng thức được.
Câu 7: Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức. Tức là mình là công dân có bổn phận với đất nước. Mô típ này khẳng định dứt khoát tác giả không theo Lão Trang.
4. Nếu ta tìm hiểu tư tưởng tác giả qua tần số xuất hiện các câu thơ làm thành những mô típ thì tư tưởng ấy như sau:
Con người phải am hiểu lẽ thịnh suy, thăng giáng của tạo vật (54) để qua đó tìm lẽ sống, xuất hay xử cho hợp với mệnh trời (26). Là người dân, tôi có bổn phận với dân với nước (14), nhưng trong tình thế hiện nay khi cái xấu đã thắng, dù tôi có muốn xông ra bảo vệ chính nghĩa cũng không làm được (51). Tôi chỉ còn một cách là: từ bỏ danh lợi (57) để giữ lấy lương tâm, nhân cách mình (15), vui với đạo lý thánh hiền (24), vâng theo tình nghĩa làng xóm (29). Phải bằng lòng với cái nghèo (24), tránh tranh đua để giữ tấm lòng thanh thản (32), sống giản dị như bà con thôn xóm (25), tìm nguồn vui ở một thiên nhiên gần gũi, ngay cạnh mình (59), an hưởng phận mình (35).
Tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế. Con người lỗi lạc về lý học đến mức sứ thần Trung Quốc là Chu Xán phải phục chẳng hề nhắc đến một thuật ngữ lý học: tính, khí, ly, tâm... Nhân vật mà truyền thuyết nâng lên địa vị một tiên tri, biết trước hậu thể năm trăm năm chẳng hề nói bóng gió gì đến hậu vận. Ông trạng nguyên hay chữ nhất nước chẳng thiết gì đến chữ nghĩa, điển tích từ chương. Con người được cả thời đại tôn sùng chẳng buồn nhắc tới danh tiếng của mình. Thậm chí ông không nhắc đến cá nhân mình. Đây là một phong cách lạ, trước ông không có mà sau ông cũng không. Nhưng ông hiểu được cái bí quyết để giành được lòng tin của hậu thế. Phải gạt bỏ mọi "bánh vẽ" của cuộc đời (công danh, chức tước, chữ nghĩa, trang tức) để xuất hiện giản dị và chân thành. Không rên la, thậm chí không thở dài, không đóng vai một người thuyết phục, giáo dục. Hãy quên cái con người của cương vị xã hội (bằng tôi, nhà sư, nho sĩ...) để làm con người trong lòng mọi người. Chính vì vậy thơ ông lần đầu tiên trong văn học ta nói với mọi người. Nếu muốn nói đến ý nghĩa triết học của thơ ông thì nó là ở đấy.
5. Để đạt đến điều đó, hình thức phải hết sức đạm bạc, câu thơ không nói với giác quan mà nói với cảm nghĩ. Nhịp thơ phải rất chậm để dành chỗ cho sự suy nghĩ. Mọi trang trí, từ chương, điển tích, chữ nghĩa đều phải loại trừ để cho tâm hồn bắt gặp tâm hồn. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đạt đến trình độ cao nhất của cái giản dị nghệ thuật nhờ những kiểu lựa chọn đặc biệt.
Bài thơ theo thể thơ Đường nhưng lại được xây dựng theo kiểu thơ Tống. Thơ Đường kỵ lối chứng minh bằng suy luận, trái lại - thơ ông là thơ chứng minh. Trong bài này đã có 3 chữ chứng minh: là (c.5), thì (c.2), ấy (c.5) là những chữ nhà thơ Đường phải tránh. Nhưng dù là cấu tứ theo kiểu Đường hay kiểu Tống cũng đều trang trọng. Do đó, ông phải phá vỡ sự trang trọng này để đạt đến giản dị tối đa:
a) Câu đầu sáu chữ xây dựng hệt như một tục ngữ.
b) Chữ dùng chủ yếu là chữ đơn tiết thuần Việt chỉ có một chữ láy âm (thong thả) hai chữ điệp âm (ngọt ngọt, hiu hiu). Ngay cả hai từ Hán Việt (giang sơn, phong cảnh) thì cũng đều là những từ ai cũng biết. Chữ trời Nghiêu với nghĩa thời thái bình thịnh trị là rất dễ hiểu. Bài thơ cách ta bốn trăm năm mà đọc như thơ ngày nay. Chỉ có hai từ dùng là lạ đối với người Bắc (sốt với nghĩa nóng bức, hôm là ngày) nhưng đối với các nơi khác thì vẫn quen thuộc.
c) Bốn câu đối nhau xây dựng theo mã của tục ngữ chứ không phải theo mã câu đối Trung Quốc. Nghĩa câu 3-4 là: Khi nào khát, ta uống nước chè nấu bằng gỗ hồng mai (cách uống rất bình dị của nông thôn) ta cảm thấy thú vị vì hơi (vị) nó ngọt ngọt. Khi nào trời bức, ta nằm ở hiên gần ánh trăng, cảm thấy mát vì gió thổi hiu hiu. Nghĩa câu 5-6 là: Núi sông tám hướng tự nó đã đẹp là những bức tranh vẽ mà các nhà quyền quí vẫn treo, phong cảnh bốn mùa thay đổi tự nó đã tươi như gấm thêu rồi (vật quí). Như vậy hạnh phúc là rất gần gũi: nó ở ngay cạnh ta, trong lòng ta. Gốc của cái nhìn này là ở Thiền tông, không phải gốc dân dã, nhưng cái nhìn được xây dựng theo kiến trúc dân dã. Đó là kiến trúc của Ăn-vóc, học-hay, của chồng công vợ tức là kiến trúc vị ngữ - vị ngữ: Nếu ăn thì người có vóc lớn, nếu học sẽ biết. Xét về của tuy là thuộc về chồng nhưng xét về công lại là do vợ.
a) Vì áp dụng kiến trúc tục ngữ nên thơ ông nhịp cắt rất nhiều và câu thơ đọc rất chậm. Ông là nhà thơ mà nhịp thơ chậm nhất. Thông thường, câu thơ Đường chỉ có một nhịp sau chữ thứ tư. Chúng tôi đã chấm câu lại để bạn đọc nắm được cách tổ chức này cho hiển nhiên hơn.
b) Thiên nhiên của ông rất lạt, không có màu. Nó hết sức tĩnh: nếu có một chút vận động (gió hiu hiu) thì mục đích không phải để nêu vận động mà để nêu một sự yên tĩnh cao độ. Nó thường được diễn đạt bằng một từ đơn tiết (gió, mây, núi...) Đặc biệt, con người suốt đời đối diện với biển từ khi ra đời đến khi chết, sống chỉ cách biển vài cây số thế mà trong thơ không nói đến biển. Phát hiện kỳ thú này là của anh Trần Quốc Vượng, lúc mô hình hóa tôi còn bỏ sót yếu tố này. Vì chưa mô hình hóa Nguyễn Trãi (một người hay nói đến biển) để có cơ sở đối lập, có gì đâu: ông tìm sự yên tĩnh, ông ghét đồng tiền, thương nghiệp, thủ công nghiệp, cho nó là nguyên nhân đẻ ra mọi tai họa. Mà biển thì lại gắn liền với hoạt động, với thương nghiệp và thủ công nghiệp là cái mà vào thời đại ông lại phồn thịnh nhất ở ngay quê hương ông. Điều này chứng tỏ thiên nhiên nghệ thuật không phải là thiên nhiên khách quan.
6. Thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải loại thơ đọc để nhìn, để nghe. Ông là con người duy nhất của văn học ta chủ trương một đường lối nghệ thuật riêng: nghệ thuật là để giúp con người tìm lại được chính mình, chân thành với mình và với xã hội. Khi nào ta hiểu được nhu cầu ấy, ta sẽ biết ơn phu tử và sẽ hiểu được giá trị của nhà thơ kiệt xuất.
P.N.
(SH35/01&02-89)
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.
NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...
HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.
TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)