Thử nêu vài nét về hồn vía văn xuôi miền Trung

14:29 05/09/2008
HỒNG NHU            (Tham luận tại Hội nghị Văn học Miền Trung lần thứ II tháng 9-2002) LTS: Hội nghị văn học miền Trung lần thứ hai vừa diễn ra tại thị xã Sầm Sơn, Thanh Hoá trong 2 ngày 19 và 20 tháng 9 năm 2002. Gần 80 nhà văn của 18 tỉnh thành từ Bình Thuận đến Thanh Hoá đã về dự. Ngoài ra còn có đại diện các hội đồng chuyên môn, các ban công tác, các cơ quan báo chí xuất bản của Hội Nhà văn Việt cũng có mặt trong cuộc hội ngộ này.

24 bản tham luận trình bày trước hội nghị đã thể hiện được ý chí, tâm huyết và trách nhiệm của đội ngũ nhà văn miền Trung đối với đất nước và nhân dân.
Nhạc sĩ Trần Hoàn, Phó Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá T.Ư, nhà thơ Hữu Thỉnh, Tổng Thư ký Hội Nhà văn Việt Nam cũng đã tham dự chỉ đạo và phát biểu với hội nghị.
Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số tham luận sau đây.


Giờ đây có lẽ không còn ai nghĩ như một cách khái quát lâu nay rằng miền Bắc là đất của tiểu thuyết, miền là đất của sân khấu ca kịch, và thơ ca luôn ngự trị ở miền Trung nữa!
Nền văn học Việt Nam ta từ sau Cách mạng Tháng 8 đến nay, qua các giai đoạn các thời kỳ - bằng những thành tựu của nó - đã san lấp, bù trừ và nhào nặn nên một nhận thức thống nhất, công bằng và khoa học hơn, không còn sự phân biệt theo cảm tính, mang màu sắc "trấn thủ địa phương" như trên. Có được như vậy là nhờ đường lối văn học đúng đắn, kéo theo sự phát triển đồng đều, sự thúc đẩy của tình hình khách quan, và hơn hết là nội tâm nội lực của các chủ thể sáng tạo. Không có nhà văn miền Trung nào lại nghĩ rằng mình không thể thành công trong lĩnh vực văn xuôi. Và cũng như vậy, thật hoang đường nếu có ai đó cho rằng các nhà văn Nam Bộ thì chẳng thể làm thơ hay, chẳng thể có truyện ngắn truyện dài nổi tiếng!
Công cuộc đổi mới của đất nước đã làm biến đổi tư duy sáng tạo - nói chính xác hơn, tôi nghĩ - là trở lại cốt lõi của những gì trong cuộc sống con người với những cung bậc và sắc màu khác nhau mà thiên chức nhà văn luôn hướng tới với tất cả tâm hồn và lao động đặc thù của mình để thể hiện. Chỉ kể trong vòng vài bốn năm gần đây thôi, nghĩa là trong nhiệm kỳ này của Đại hội VI Hội ta, các nhà văn xuôi miền Trung đã không hổ thẹn với điều vừa là trách nhiệm vừa là "luật chơi" nói trên.
Miền Trung nghèo và khó, ai cũng biết rồi, khỏi phải nói nhiều. Song ở đây có một vấn đề: các nhà văn chúng ta trong môi trường đó, đời sống và điều kiện làm việc có thể tóm gọn trong mấy chữ: nghèo và nghèo nhất, khó và khó nhất! Không mấy người có thuận lợi về đời sống vật chất. Thật chẳng hay ho gì khi phải kể điều này ra, nhưng đó là tình hình có thật. Và đây là tình hình có thật nữa: không có khó khăn nào có thể dừng được ngòi bút sáng tạo của các nhà văn. Chúng ta đã thường trực và không ngừng quẫy cựa - mỗi người mỗi cách, có cách nghe như tiểu thuyết vậy! - để làm sao luôn hiện diện với cuộc đời với người đọc bằng tác phẩm chứ không phải bằng cái "chức danh nhà văn"; mà trong những tác phẩm đó, người đọc không hề thấy bóng dáng của sự khó khăn, chật vật trong cuộc sống thường ngày tác giả của chúng đang phải đối mặt và còn phải đối mặt không phải trong tương lai gần một vài mùa sáng tác đâu! Xin nêu một thống kê không được đầy đủ và chính xác lắm: từ 2000 - 2002 số lượng tác phẩm của hơn ba mươi nhà văn viết văn xuôi ở miền Trung là ngót sáu mươi cuốn, mỗi cuốn từ 150 trang đến 500 trang gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tạp văn v.v... Chúng ta đều biết rằng đối với văn chương, số lượng chẳng là cái gì, song số lượng cũng không phải chẳng là cái gì... Một số tác phẩm trong số trên đã được giải hàng năm, hàng kỳ ở các Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật, Hội Nhà văn ở Trung ương. Về các giải văn chương, tôi vẫn suy nghĩ rằng: tác phẩm được giải chưa chắc đã xuất sắc và tác phẩm không được giải chưa chắc đã không xuất sắc. Theo chỗ tôi được đọc, có đến một phần ba các tác phẩm trong mấy năm nay của các nhà văn miền Trung đều có chất lượng khá, đều không thua kém gì với các tác phẩm mà các Hội Trung ương đã trao giải.
Nhân nói đến chuyện này, năm ngoái tôi có khùng khùng làm một động tác thử nghiệm, có thể gọi là một cú "điều tra xã hội" nho nhỏ: tôi đem ra 5 cuốn sách mà với tư cách một thành viên của Hội đồng Văn xuôi tôi đã bỏ phiếu đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn, và 4 cuốn của các bạn miền Trung ta đang có mặt ở đây - dĩ nhiên là những cuốn các bạn hoặc không gửi dự giải hoặc không được chọn qua ban sơ khảo. Đối tượng đọc là 3 giáo viên đại học, 3 cán bộ về hưu và 3 sinh viên năm cuối. Đây toàn là bạn bè quen biết của tôi, họ đều là những người ham mê đọc văn chương, tôi cố ý chọn như thế để họ đọc xong có thể nói thật lòng với tôi. Kết quả thật bất ngờ: 5 cuốn tôi bỏ phiếu không ai khen hay cả, còn 4 cuốn của các bạn thì 3 được thích, được khen hay!
Chẳng có gì là lạ trong chuyện khen chê, nhưng qua chuyện này tôi giật mình, tự nghi ngờ sự thẩm định của bản thân. Vẫn biết rằng cái kết quả nọ chắc gì đã đúng đã chính xác; chuyện văn chương mà, chín người mười ý, biết đâu mà lần, nhưng nó vẫn làm cho chúng ta cần và nên suy nghĩ nghiêm cẩn nhiều điều, tỉ như: làm sao để xã hội hoá các sản phẩm sáng tạo của nhà văn; làm sao nâng cao thị hiếu thẩm thấu văn chương của người đọc; làm sao để công bằng, dân chủ và chuẩn xác hơn trong thẩm định văn chương v.v...
Ở miền Trung ta, có nhiều nhà thơ viết văn xuôi và ngược lại. Viết ra viết, viết cho sự nghiệp, tức là cả hai lĩnh vực các anh chị ấy đều có những thành tựu đáng chú ý. Xin thổ lộ một điều riêng: tôi không sợ lắm những nhà văn xuôi làm thơ, nhưng rất sợ, rất phục những nhà thơ viết văn xuôi. Đọc họ, tôi thấy họ uyên áo nhiều, thâm hậu lắm; đặc biệt là trong các loại văn bút ký, phê bình cảm nhận, nhàn đàm, tản văn... Ở phía chủ thể, chừng nào mà thể loại tự tìm đến mình chứ không phải do mình lăm le rồi ấn định trước, là thường thu được những thành công đáng giá. Thể loại chọn lựa tác giả chứ không phải tác giả chọn lựa thể loại, đúng vậy chăng?
Hồn vía núi sông, thế đất màu trời cùng với lịch sử, điều kiện sống của một vùng đất tạo nên khí chất con người ở đó, điều này không còn nghi ngờ gì; cố nhiên là có cả mặt hạn chế của nó. Miền Trung là phần giữa của đất nước mình, đi dọc bằng đường bộ từ xứ Thanh vào Phan Thiết, dằng dặc đến muốn tắc thở vì nóng cả ruột. Ấy vậy mà khi ngồi trước trang giấy trắng, tôi nghĩ chắc rằng các bạn đồng nghiệp cũng như tôi, cái sự nóng ruột đó đã biến thành niềm rạo rực, giục giã, bởi vì trên chặng đường dài đó chúng ta đã gom nhặt được biết bao là tình tiết sự việc, biết bao là hình ảnh con người, dịu dàng thuần phác có, đốp chát kiêu sa có, thanh thoát an nhiên có, bi hùng máu lệ có...
Vùng đất dài và hẹp như chiếc đòn gánh, mà đã là đòn gánh tất nhiên để quảy hai bầu; như cái lưng ong, mà đã thắt đáy lưng ong ắt phải gồng mình để đỡ ngực và bụng. Sự giao lưu và tiếp thụ văn hoá của hai đầu đất nước đã tạo cho văn chương miền Trung một bản sắc mở; riêng gương mặt văn xuôi của miền cũng vì thế mà hoàn toàn trái ngược với chiều ngang của nó chẳng mấy nả trên bản đồ và trên thực địa.
Văn xuôi miền Trung nằm trong nền văn xuôi Việt - cố nhiên rồi. Nhưng nó có những nét riêng. Theo tôi - nhất là trong truyện ngắn truyện vừa, nó hàm chứa cái chất miệt mài đắm đuối. Miệt mài vì phải lao động cần cù, cực nhọc mới sống được. Đắm đuối vì phải chịu đựng, chịu đựng trong hoạn nạn đã đành, chịu đựng trong cả hạnh phúc. Nói tóm lại nó giông giống như một thứ tình yêu kỳ ảo. Các nhà văn miền Trung yêu một người đàn bà hay đàn ông nào đó không nổi thì chi bằng yêu hết mọi người đàn bà đàn ông cho xong! "Cá chuối đắm đuối vì con", cái câu này rất hợp, vẽ rất đúng hồn vía văn xuôi miền Trung.
Bên cạnh những Hoàng Phủ Ngọc Tường, Trần Thuỳ Mai phiêu bồng và khói sương ẩn hiện; là những Từ Nguyên Tĩnh, Kiều Vượng, đặc chất trực diện, vỗ mặt, viết như đẽo gỗ chặt đinh... Bên cạnh những Nguyễn Quang Hà, Phan Cao Toại, Hà Khánh Linh năng nổ, tung ra như gió cuốn mây bay; là những Hữu Phương, Nguyễn Khắc Phê, Hoàng Bình Trọng dùi mài, khẩn thiết với những ngõ ngách cuộc sống chẳng dễ dàng gì hôm nay... Bên cạnh những Đức Ban, Huỳnh Thạch Thảo mặn mà phì nhiêu như trong lòng sông biển, dưới lớp phù sa; là những Trần Thị Huyền Trang, Quý Thể vừa huyền ảo, diệu vi vừa dữ dội, ôm trùm... Bên cạnh những Thu Loan, Bá Dũng, Nguyễn Gia Nùng chỉn chu, cần mẫn với những trang viết đầy khát vọng vươn tới cái hoàn thiện; là những Như Bình, Nguyễn Thị Phước, Đàm Quỳnh Ngọc thuần hậu, đắm say, hồn có vẻ lãng đãng trên cao nhưng thật ra thân bám trụ rất chắc dưới đất...
Tôi xin lỗi vì không thể kể hết các anh chị khác ra đây. Nhân buổi gặp mặt, bàn thảo công việc hôm nay, chúng ta nhớ biết bao đến các nhà văn miền Trung bám sát cơ sở địa phương một đời vì sự nghiệp đã từ giã chúng ta, về cõi đã lâu hoặc mới gần đây. Tôi tin rằng ở thế giới bên kia, hẳn các anh cũng đang theo dõi những người đồng nghiệp là chúng ta đang sống và lao động văn học trên mảnh đất quê hương anh hùng dầu dãi; trong cái hồn thâm trầm, đau đáu của khúc ruột miền Trung cộng với cái sắc sảo hào hoa của xứ Bắc và cả cái khoáng đạt hào sảng của miền Nam, mà các nhà văn chúng ta đang hoà trộn giờ đây đã trở thành máu thịt.
Có một điều có thể gọi là khác lạ ở miền Trung: các lớp nhà văn trẻ dường như có một lực lượng phi vật thể linh nghiệm nào đó hướng dẫn mà ngòi bút của họ bám chắc vào truyền thống, vào văn hoá dân tộc, một cách như là thuộc tính. Không thấy có sự "nổi loạn", "bứt phá", "xé rào"; không thấy có sự cách tân nhay nháy hoặc làm ra vẻ ta đây "hoà nhập" với thế giới, "toàn cầu hoá" văn chương - điều mà vừa qua và cả giờ đây, trên mặt bằng văn học nước ta không khó lắm để nhận ra trong một số tác phẩm tác giả nào đó.
Nhận thức rằng ngày nay dân trí ta đã phát triển khá cao, quần chúng độc giả đòi hỏi nhà văn càng cao. Những gì còn yếu, còn thiếu, bản thân nhà văn tự biết hơn ai hết. Nhà văn miền Trung cũng vậy thôi. Quyền được hi vọng là quyền không bao giờ chấm dứt.
Xã hội đã thành thói quen từ công cuộc đổi mới, chấp nhận tất cả những gì cần chấp nhận của các nhà văn thể hiện ra trên tác phẩm, miễn là trung thực và xây dựng. Và cái chính là phải hay. Hay cũng ba bảy đường, nhân dân quần chúng họ biết điều này lắm; và ở một góc độ nào đó, họ còn biết hơn nhà văn chúng ta. Ở chỗ họ là người thưởng thức, người được phục vụ, họ không bị những gì ngoài văn chương chi phối sự đánh giá của họ.
Như vậy, tôi nghĩ rằng chúng ta hãy viết vì quần chúng độc giả đó. Điều này không hề mâu thuẫn, trái lại đồng nghĩa với mệnh đề nằm lòng của chúng ta: nhà văn viết vì sự mách bảo của con tim, con tim thuộc về nhân dân, đất nước mình...
9-2002
H.N

(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM TẤN XUÂN CAO

    Cầm tay chưa muộn nối lời
    Nghiêng mình gửi mộng mây trời lang thang

                                   (Bùi Giáng)

  • VĂN GIÁ  

    Tôi bắt đầu nhan đề bài viết bằng một câu hỏi có vẻ như khá liều lĩnh? Nó sẽ lập tức dẫn đến một phản biện ngay sau đó: “Hay” là một cách nói định tính, không tường minh được, anh cho là hay, tôi cho là không hay, thậm chí là dở thì thế nào?

  • BỬU Ý

    (Nhân dịp giới thiệu tập sách của nhiều tác giả “Thơ Tân Hình Thức Việt - Tiếp nhận và sáng tạo” tại tòa soạn tạp chí Sông Hương, Huế, ngày 15.8.2014)

  • PHAN NGỌC THU

    Cùng với văn học cả nước, hiện nay, văn học ở mỗi vùng đất cũng đang đứng trước yêu cầu lớn lao của công cuộc đổi mới.

  • “Chúng sanh chìm bùn dục
    Những kẻ không thấy đời…”
                                        Subha.

  • PHẠM XUÂN NGUYÊN

    “Cái hèn” này, gần đây, đã được một số người nói đến khi nhìn lại một giai đoạn văn học vừa qua. Nhưng tôi có cảm tưởng tác giả đó chỉ mới đủ dũng cảm để dám nói về “cái hèn” của mình so từ bên ngoài mình đưa tới mà thôi.

  • HOÀNG LONG

    Trên thế giới, thể loại truyện cực ngắn có nhiều tên gọi. Ngoài tên thông dụng nhất là “truyện cực ngắn” hay “truyện rất ngắn” thì còn có các tên truyện chớp, truyện ngắn ngắn…

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Khi bàn tới những vấn đề không đơn giản như quan hệ giữa văn nghệ và chính trị, thiết tưởng chẳng những cần xét xem về mặt logic lý luận thì nên quan niệm thế nào cho thỏa đáng, mà còn cần xét về mặt lịch sử, quan hệ này đã được biểu hiện ra sao, thực chất của nó là gì, v.v…

  • ANH CHI

    Sau khi đọc tiểu luận Ý nghĩa một đời người của tôi trên tạp chí Nhà văn và Tác phẩm số Tết Giáp Ngọ 2014, nhà văn Nguyễn Ngọc Thiện đã viết bài Về các tiểu luận cho là của Lê Tràng Kiều trong “Văn chương và hành động” (NV&TP số tháng 3 và 4/2014), ghi là “trao đổi với Anh Chi”. Nhưng, nội dung bài viết đó cho thấy anh chỉ hành xử với nhà văn Lê Tràng Kiều, và cách hành xử vẫn như cũ. Do vậy, tôi thấy cần phải viết bài tiểu luận này để trao đổi lại.

  • LGT: Bản dịch của chúng tôi lấy từ lời giới thiệu của Cheryll Glotfelty trong “Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh thái học Văn học” do Cheryll Glotfelty và Harold Fromm chủ biên.

  • NGUYỄN HỮU LỄ

    ...Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ (1914 - 1987), quê ở xã Văn Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế trong một gia đình hoàng tộc. Bằng con đường tự học, Tôn Thất Dương Kỵ đã trở thành một nhà nghiên cứu lịch sử, một nhà giáo, đồng thời là một trí thức yêu nước, một chiến sĩ cách mạng…

  • TRẦN ĐÌNH SỬ - LÃ NGUYÊN

    (Nhân bài báo của Ngô Tự Lập Đọc sách “Lột mặt nạ Bakhtin - câu chuyện về một kẻ lừa dối, một chuyện bịp bơm và một cơn mê sảng tập thểcủa Jean - Paul Bronckart và Cristian Bota (Thụy Sĩ, 2011, 630 trang))

  • DƯƠNG PHƯỚC THU (Sưu tầm, giới thiệu) 

    LGT: Đã từng có một cuộc xướng họa thơ trên báo với số lượng người tham gia đông kỷ lục; 1324 lượt tác giả với 1699 bài họa. Dưới đây, Sông Hương xin giới thiệu lại Vườn thơ đoàn kết do Báo Cứu Quốc - nay là Báo Đại Đoàn Kết tổ chức xướng họa thơ cách đây đã 43 năm.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920.

  • LÊ DỤC TÚ

    “Chủ nghĩa nhân văn tôn giáo cũng là một nguồn cảm hứng của văn nghệ, đồng cảm với con người nhân đạo trong văn chương”...

  • MAI VĂN HOAN

    Ngôn ngữ nói chung và chữ tôi nói riêng, khi bước vào tác phẩm văn học cũng có số phận thăng trầm liên quan mật thiết đến những thăng trầm của lịch sử nước nhà. Tìm hiểu chữ tôi trong tiến trình phát triển văn học Việt Nam là một đề tài khá lý thú. Ở bài viết này, tôi chỉ đi sâu khảo sát chữ tôi được thiên tài Nguyễn Du sử dụng trong tác phẩm Truyện Kiều.

  • NGÔ MINH

    Bản lĩnh văn hóa là cuốn sách gồm các bài báo và tiểu luận của nhà văn Tô Nhuận Vỹ do Nxb. Tri thức ấn hành năm 2014. Tôi đọc một mạch với sự xúc động và hứng khởi.

  • LÝ HOÀI THU

    Thôn ca (1944) của Đoàn Văn Cừ là bức tranh thơ sống động về con người và cảnh vật của không gian văn hóa Sơn Nam - Bắc Bộ.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Độc giả trẻ thời nay không ít người sẽ hết sức ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng Truyện Kiều, thiên tiểu thuyết bằng thơ dài tới 3.254 câu với cả thảy 22.778 lượt dùng từ, nhưng lại chẳng hề có qua một chữ NẾU nào, tuy rằng nghĩa “ĐIỀU KIỆN” và/hay “GIẢ ĐỊNH”, vốn được diễn đạt bằng NẾU (hoặc các biểu thức ngôn từ tương đương) trong tiếng Việt đương đại là một trong những nghĩa phổ quát (tức mọi thứ tiếng đều có) và ít thấy một thứ tiếng nào lại vắng các phương tiện riêng để biểu thị.