Không chỉ trong các dịp Festival, cánh diều mới được thỏa sức tung bay trên bầu trời Cố đô, mà từ lâu diều đã được xem là thú vui của những người dân xứ Huế đối với cả người lớn và trẻ em.
Thả diều là một thú chơi có từ xa xưa ở Việt Nam, nhưng để nâng cánh diều lên thành một nét văn hóa thì không phải nơi nào cũng làm được. Ở Huế, từ lâu, thú chơi thả diều đã được các vua chúa triều Nguyễn tổ chức thành những lễ hội hoành tráng trong các dịp lễ tết. Thời vua Đồng Khánh, vua Bảo Đại, còn tổ chức các cuộc thi thả diều có giải thưởng. Huế cũng là nơi có câu lạc bộ diều đầu tiên trong cả nước với tên gọi “Hội Cầu Phong”, được thành lập năm 1973, tập hợp những người yêu thích thả diều ở Cố đô. Từ Câu lạc bộ này, rất nhiều nghệ nhân tài tử đã thành danh với nghệ thuật làm diều, thả diều còn lưu truyền đến nay ở Huế như: Đoàn Chước, Nguyễn Văn Bân, Ưng Hạng, Trần Văn Đông… Tuy nhiên do chiến tranh, Hội Cầu Phong chỉ tồn tại được 2 năm. Sau một thời gian dài gián đoạn, năm 1983, những nghệ nhân tâm huyết với diều Huế tập hợp nhau lại và cho ra mắt CLB diều Huế với hơn 20 thành viên. Sau gần 20 năm phát triển, CLB diều Huế đã có hàng trăm hội viên, với rất nhiều nghệ nhân tài tử nổi tiếng như Nguyễn Văn Bê, Nguyễn Văn Ry, Nguyễn Đăng Hoàng, Nguyễn Văn Cư… đã làm rạng danh cho diều Huế qua các cuộc liên hoan diều trong nước và quốc tế. Đến nay, CLB diều Huế đã 9 lần dại diện cho diều Việt Nam có mặt tại liên hoan diều Quốc tế được tổ chức 2 năm một lần ở Pháp - nơi được coi là thủ phủ của nghệ thuật thả diều thế giới.
Buổi chiều trên quảng trường Ngọ Môn trước kinh thành Huế, những cánh diều với đủ màu sắc rực rỡ, đủ kiểu dáng thả sức bay lượn trên bầu trời. Màu xanh biếc của trời làm nền cho những cánh diều chim phượng rực rỡ. Cái nắng nóng gay gắt của mùa hè không làm giảm đi niềm đam mê của những người chơi diều. Tầm 3 giờ chiều, nhiều nhóm diều đã tụ tập để chuẩn bị cho màn trình diễn trên không. Để thực hiện được điều này, những người chơi diều ngoài sự đam mê còn có cả một quá trình kế thừa và sáng tạo về nghệ thuật thiết kế và biểu diễn. Để làm ra một con diều đã khó, điều khiển được diều bay lượn theo ý muốn càng khó hơn.
Tre là loại vật liệu dễ kiếm và quen thuộc với đời sống người dân Huế từ bao đời nay. Các loại diều Huế chủ yếu khung được làm bằng tre, dán vải, sơn bằng sơn dầu và bột màu luy-mi-nơ cho màu bền, đẹp. Mỗi con diều được làm ra là một tác phẩm nghệ thuật. Đó là sự kết hợp của kiến trúc, hội họa, kinh nghiệm và qua rất nhiều lần thử nghiệm mới trình diễn trước công chúng.
Tuy vất vả, nhưng bằng sự đam mê, các nghệ nhân diều đã làm nên một bộ sưu tập diều khổng lồ với nhiều mẫu mã khác nhau trong hình dáng các loài chim thú. Diều hình rồng và chim phụng có thể được xem là nhiều nhất, tượng trưng cho mảnh đất kinh đô cuối cùng của nước ta. Tiếp đó là các loài vật quen thuộc trong đời sống như chim công, bướm, quạ.. Ngay cả những loài không biết bay như cá, con người cũng được cho bay luợn. Nhìn những cánh diều bay chập chờn trong gió, lên cao khi gió mạnh, thả mình lơ lửng khi gió hiu hiu cũng tựa như chính số phận cuộc đời của con người và ước mơ khát vọng muốn bay lên trên cuộc đời.
Chơi diều đang là thú chơi thu hút được nhiều lứa tuổi tham gia từ người già đến trẻ nhỏ với một niềm đam mê khó tả. Mùa hè có nhiều thời gian rảnh thì người thả diều càng đông, những cánh diều bay lượn càng nhiều. Từ thú chơi dân dã của cha ông ngày xưa, các nghệ nhân đã nâng lên thành nét văn hóa đặc sắc của Huế. Ngày nay, Huế đang định hình là một thành phố Festival của Việt Nam, với rất nhiều lễ hội được tổ chức hoành tráng. Diều Huế đã thực sự trở thành một thú chơi nghệ thuật, một đặc sản văn hóa của Cố đô.
Ðể bảo lưu và gìn giữ nghệ thuật diều truyền thống, các nghệ nhân diều Huế thường xuyên mở các lớp dạy làm diều, thả diều cho thanh, thiếu niên. Ðó chính là một sự đảm bảo để nghệ thuật chế tác và thả diều truyền thống ở Huế phát triển lâu bền và không bị mai một trong tương lai.
Võ Thúy Hiền
Chiều 3/10, chiếc xe kéo của Hoàng thái hậu Từ Minh, mẹ vua Thành Thái chính thức được chuyển vào Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp để chuẩn bị đưa về Việt Nam.
Đèo Hải Vân nằm trên dãy Trường Sơn, ở ranh giới 2 tỉnh Thừa Thiên-Huế (phía bắc) và TP.Đà Nẵng (phía
Cứ đến gần cuối năm, khi lúa trên rẫy đã đến độ chín vàng. Trời đông cũng đang se sắt lạnh, sương trắng bồng bềnh bay trên đỉnh núi A Túc là lúc mà toàn thể dân làng dù là tộc người Pacôh, TàÔi, Cơtu hay Pa hy.
Là điểm du lịch nổi tiếng của Thừa Thiên - Huế, Bạch Mã có rất nhiều nơi để tham quan như: Thác Đỗ Quyên, Ngũ Hồ, Vọng Hải Đài với vẻ đẹp của núi trời như một bức tranh thủy mặc.
Sau chiến tranh, gần 2/3 trong tổng số gần 300 công trình kiến trúc nghệ thuật cung đình của cố đô Huế trở thành phế tích, số còn lại trong tình trạng hư hại, xuống cấp nghiêm trọng. Cùng với việc nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, tỉnh Thừa Thiên - Huế đã mở cuộc vận động bảo vệ di tích Huế và đạt kết quả to lớn.
Được xây dựng cách đây hơn 400 năm với bao biến động nhưng chùa Thiên Mụ vẫn giữ được vẻ uy nghi, thanh tịnh và cổ kính bên dòng sông Hương...
Không nơi đâu người phụ nữ lại thích mặc áo dài như ở Huế. Thậm chí, chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của các cô gái Huế. Điều đó đã làm cho du khách khi đến với Huế nhiều khi phải ngẩn ngơ khi có dịp được ngắm nhìn, chiêm ngưỡng.
Thời 13 vua Nguyễn (1802-1845) trị vì triều đại phong kiến cuối cùng Việt Nam đóng kinh đô tại Huế đã ghi nhận một số hoạt động khá phong phú của ngựa, dù thời này ngựa ít được dùng vào hoạt động quân sự.
Trong tất cả các triều đại phong kiến, duy nhất ở cố đô Huế có Bình An Đường là nhà an dưỡng và khám, chữa bệnh đặc biệt chỉ dành riêng cho các thái giám, cung nữ (thời vua nhà Nguyễn).
Huế, miền đất cố đô nằm ở miền trung Việt Nam, vẫn được biết đến như một thành phố thơ mộng và lãng mạn.
Đối với di sản văn hóa của dân tộc, tài liệu châu bản là một di sản có giá trị lớn. Đó là ký ức của lịch sử, là nguồn sử liệu gốc có ý nghĩa to lớn đối với việc nghiên cứu và biên soạn lịch sử dân tộc. Tuy nhiên, hầu hết các triều đại phong kiến Việt Nam đều không còn lưu giữ được nguồn tài liệu quý báu này, trừ triều Nguyễn (1802-1945), do những điều kiện lịch sử đặc biệt.
Hình ảnh thiên nhiên, con người và những lăng tẩm đền đài của xứ Huế vương vấn bước chân du khách mỗi lần có dịp ghé qua...
Làng Mỹ Lợi (xã Vinh Mỹ) và làng An Nông (xã Lộc Bổn, huyện Phú Lộc, Thừa Thiên- Huế) là nơi lưu giữ những tài liệu chứng minh chủ quyền biển đảo Hoàng Sa của nước ta. Những tài liệu quý hàng trăm năm tuổi được người dân các ngôi làng này xem như báu vật và dốc sức giữ gìn.
Ngày 15/8/1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh cũng là lúc ở Việt Nam, các thế lực bước vào một cuộc chạy đua nước rút để nắm quyền định đoạt tương lai nước này sau 80 năm là thuộc địa Pháp.
Khải Định đã tìm được một thế đất dường như “sinh ra để làm nơi ngả lưng cho một linh hồn quyền quý”…
Chỉ xếp sau Hà Nội, cũng giống như Quảng Nam, Thừa Thiên-Huế là tỉnh sở hữu cùng lúc 2 di sản đã được Unesco công nhận, đó là Di sản văn hóa phi vật thể Nhã nhạc Cung đình và Di sản văn hóa thế giới Cố đô Huế.
Được xây dựng đã lâu nhưng các cây cầu độc đáo ở Huế, Hội An, Nam Định... vẫn giữ được nét đẹp kiến trúc thuở ban đầu.
Trải qua hơn 150 năm, nhiều thắng cảnh trong “Thần kinh nhị thập cảnh” do vua Thiệu Trị lựa chọn đã bị lụi tàn hoặc không còn nguyên vẹn. Nhưng đến Huế, du khách vẫn nhận ra vùng đất cố đô vẫn còn những thắng cảnh mang vóc dáng, hình hài của 20 cảnh đẹp Huế đô xưa.
Ngày 25-6, WWF và Microsoft tổ chức hội thảo chia sẻ thành công của dự án “Tăng cường rừng ngập mặn nhằm góp phần thích ứng biến đổi khí hậu và bảo tồn đa dạng sinh học vùng đầm phá ven biển tỉnh Thừa Thiên Huế”, đồng thời công bố tiếp tục hỗ trợ dự án với phương pháp tiếp cận tích hợp hơn.
Thư viện Tổng hợp Thừa Thiên Huế vừa mới cùng với Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh về tại Đình làng Thủ Lễ thực hiện đề tài “nghiên cứu, sưu tầm, số hóa Hán Nôm”.