Thi ca và cái nhìn về tương lai

16:55 20/01/2009
VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

Cái nhìn về tương lai của thi ca chứa trong nó bao tai ương, bất trắc và cả niềm tin, sự hướng thiện với sự chuyển động âm thầm, đơn độc bất chấp mọi phán xử, kể cả thái độ thờ ơ của các nhà phê bình và người đọc cùng với sự xung đột, va chạm của các trường phái, khuynh hướng nghệ thuật. Sự thừa nhận hay khước từ thi ca từ phía người tiếp nhận và chỗ đứng, cái nhìn của nhà thơ trong không gian, thời gian sống và không gian văn hóa đều trở thành những tiền đề và sự giao thoa để hình thành tâm thế chung của cả thời đại.

Dù vị thế của nhà thơ nằm tận dưới đáy xã hội hay ở chót vót đỉnh cao danh vọng thì tâm thế của họ vẫn có sự chiếu rọi đến mọi chiều kích của vũ trụ. Ngôi vị của thi ca và của nhà thơ chân chính chẳng phải do sự suy tôn hay sự cộng hưởng đồng tâm của cộng đồng và xã hội. Nhà thơ đặt tâm thế giữa trung tâm của thế giới và gieo vào cõi hỗn mang âm u của ký ức hạt mầm niềm tin để hướng về những ẩn số của tương lai. Nhà thơ là “kẻ thấu thị tương lai” nhưng lại thường bị ruồng bỏ, bị tụt lại giữa dòng chảy khắc nghiệt của đời sống và cuộc đấu tranh quyết liệt của sự sinh tồn. Giới hạn của cái chết và sự bất lực của con người trước sự vô tận của thời gian buộc nhà thơ phải đặt cả cuộc đời mình vào canh bạc của tương lai. Do cái nhìn của nhà thơ hướng về tương lai nên dòng chảy của thi ca không có sự bất đầu và kết thúc, nó luôn ở trạng thái tuôn trào và hòa nhập với vô biên. Tương lai không lừa mị con người nhưng có những nhà thơ đã đánh tráo tương lai để biến nó thành con ngáo ộp đặt giữa trang thơ và những tuyên ngôn để hù dọa những tâm hồn yếu đuối, nhẹ bóng vía. Bóng dáng của tương lai nào phải sự vay mượn, sự mô phỏng những thành đạt và sự bất tử của thiên tài mà nó cháy bỏng trong đôi mắt và chất chứa trong trái tim yếu ớt, nhạy cảm của nhà thơ.

Nhà thơ Whit-man đã từng bị con người của hiện tại nguyền rủa nhưng ông không hề van xin sự che chở và bảo hộ của tương lai. Chính cõi đam mê, niềm khao khát tự do và sự hòa nhập với vô biên đã khiến nhà thơ chối bỏ mọi phép tắc, luật lệ, thủ pháp của cơ chế xã hội và nghệ thuật đương thời để tạo dựng cõi mê đắm, tự do của riêng mình trong thế giới mong manh, bền vững của ngôn từ. Tương lai theo cái nhìn của tôn giáo hướng về sự siêu thoát khỏi cõi ô trọc của trần thế và sự luân hồi vô tận. Tương lai với cái nhìn của nhà thơ là sự hóa giải, rút tỉa mọi cái nhìn từ tâm thế của cá nhân và cộng đồng để hướng về vương quốc của sự bình an, tự tại và nhất thể. Dù góc nhìn của nhà thơ rộng hay hẹp, như cánh chim bay qua cánh cửa vòm trời hay như chú lạc đà chui qua ống sáo thì ngôn từ của thi ca vẫn là cõi mênh mông, thẳm sâu và dài rộng của không gian thời gian vũ trụ. Cái tôi của nhà thơ trú ngụ không phải ở những lời tụng ca mà chính là ở “con mắt chữ” với sự bất an và kiêu hãnh trước thuốc thử màu của thời gian. Dù thi ca trở về thuở hoang sơ, phôi thai của nhân loại hay hướng đến cõi vô cùng của tạo vật vẫn chỉ là một cái nhìn duy nhất mang nguồn năng lượng của sự yêu thương và sự khoan dung vô bờ bến giữa các cá thể của nhân loại hôm nay và thế giới ngày mai.

Hoàn toàn không phải là lời cảnh tỉnh khi chúng ta từng chứng kiến có những nhà thơ đang đứng vững đôi chân giữa cõi trần thế mà lại bị tương lai cầm tù, giam hãm. Cái bóng của tương lai choáng ngợp, đè lên tâm thế của họ khiến họ bị chìm trong vũng lầy của thực tại và mù lòa trước cả tương lai. Nhà thơ là kẻ lưu giữ ký ức, kỷ niệm của dân tộc và nhân loại. Chính vì ký ức và kỷ niệm luôn đồng hành với hiện tại và tương lai nên nhà thơ và thi ca mãi mãi vẫn là niềm tri ân, là bảo tàng tinh thần không thể thiếu trong sự tồn vong, phát triển của nhân loại. Tương lai bắt đầu từ tiếng tích tắc của chiếc kim đồng hồ, từ cái chớp mắt của đứa hài nhi vừa lọt lòng mẹ và cả hơi thở cuối cùng của một cụ già bị khuất lấp bởi muôn sắc màu và âm thanh của cuộc sống. Liệu nhà thơ có thể thấu triệt được tương lai qua cái nhìn của mình? Chính cái tâm của nhà thơ là cục nam châm vô hình khép mở và thâu tóm, thu hút mọi vật thể của vũ trụ để chúng giao thoa với nhau thành một nhất thể toàn vẹn với mọi hình khối, màu sắc và nhịp điệu.

Dù thi ca mô phỏng thực tại hay tạo dáng tương lai thì nhà thơ cũng phải đối đầu với thời gian. Thi ca chỉ là một thực thể tinh thần và nhà thơ chỉ là một sinh linh bé bỏng bị hòa tan trong cõi đại đồng của vũ trụ. Nhà thơ chân chính không được ngủ quên trên xác phù du, trên đôi cánh của thời gian đã giãy chết mà luôn ở tư thế sẵn sàng vượt qua mọi giới hạn của thời gian sống và thời gian tâm tưởng. Nhà thơ hóa giải năng lượng tâm linh trong lớp vỏ của ngôn từ với sự an nhiên, tự tại và đặt tâm thế của mình giữa dòng chảy của thời gian. Thời gian là một tặng vật vô giá mà tạo hóa đã ban phát cho nhà thơ. Chẳng ai đoán định được tương lai của nhân loại sẽ thay đổi ra sao. Thời gian cư trú trong ngôn từ của nhà thơ nên nó đã trở thành tài sản, vật sở hữu chung của cả nhân loại. Chính vì thế, dù thời gian của quá khứ đã chết đi nhưng bóng dáng của nó vẫn hòa trộn cùng tâm thế nhà thơ, thấp thoáng sau từng con chữ và trong tâm hồn con người. Một nghịch lý thường xảy ra là trong khi người đọc luôn đòi hỏi thi ca phải thỏa mãn những nhu cầu tức thời thì nhà thơ lại đi hiến thân cho nàng thơ vĩnh cửu. Có thể nhà thơ có cái nhìn lướt qua trục thời gian đồng đại và anh ta thường phải trả giá bằng cả thời gian sống của đời mình, cùng với sự lãnh đạm thờ ơ của bạn đọc.

Thi ca với cái nhìn về tương lai không chỉ là sự kết tinh của thành tựu, không chỉ là sự khởi đầu liên tục mà còn là sự chiếu rọi, giao thoa giữa tâm thế của nhà thơ với chính nó và với tâm thế của cộng đồng của vũ trụ. Chỉ khi nào nhân loại không còn phải chịu nỗi thống khổ và hoàn toàn thoát khỏi cái chết thì thi ca mới thực sự hoàn thành trọng trách vén mở cõi bí ẩn của hồn người và vũ trụ ở phía tương lai.
V.T.C

(nguồn: TCSH số 240 - 02 - 2009)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN QUANG HUY

    (Khảo sát qua trường hợp "Người sông mê" qua cái nhìn của lí thuyết Cổ mẫu)

  • NGUYỄN HỮU TẤN

    Trong buổi lễ mừng thọ thất tuần, Sigmun Freud đã từng phát biểu: “Trước tôi, các thi sĩ và triết gia đã sớm phát hiện ra vô thức, còn tôi chẳng qua cũng chỉ khám phá ra những phương pháp khoa học để nghiên cứu vô thức mà thôi”.

  • Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.

  • Tỳ kheo THÍCH CHƠN THIỆN

    Theo Spaulding - The “New Rationlism”, New York, Henry Holt and Conpany, 1918, pp. 106 - 107 -, Aristotle nêu lên ba nguyên lý cơ bản của tư duy:

  • TRẦN NGUYÊN HÀO

    Năm 1987, tổ chức Giáo dục - Khoa học - Văn hóa của Liên hiệp quốc, UNESCO trong cuộc họp Đại hội đồng lần thứ 24 (tại Paris từ 20/10 đến 20/11) đã ra Nghị quyết phong tặng Chủ tịch Hồ Chí Minh danh hiệu kép: “Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn”.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Quan sát hành trình Thơ mới, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, vào đầu thập kỷ 40 của thế kỷ XX, Thơ mới bắt đầu có dấu hiệu chững lại, thậm chí khủng hoảng về cảm hứng và thi pháp.

  • JU. LOTMAN

    Từ “biểu tượng” (symbol, còn được dịch là tượng trưng, biểu trưng, phù hiệu, kí hiệu) là một trong những từ nhiều nghĩa nhất trong hệ thống các khoa học về kí hiệu(1).

  • PHẠM TẤN HẦU

    Trong bản tham luận về mảng thơ trên trang viết đầu tay của Tạp chí Sông Hương do anh Hoàng Dũng trình bày tôi thấy có chủ ý nói đến tính khuynh hướng. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đặt ra một cách chặt chẽ, sâu sắc. Theo tôi, nếu hướng cuộc thảo luận đến một vấn đề như vậy chắc sẽ đem đến cho những người viết trẻ nhiều điều bổ ích hơn.

  • ĐỖ VĂN HIỂU

    Tóm tắt
    Trước tình trạng môi trường toàn cầu đang ngày một xấu đi, giữa thập niên 90 của thế kỷ 20 Phê bình sinh thái đã ra đời với sứ mệnh cao cả là phân tích chỉ ra căn nguyên văn hóa tư tưởng dẫn đến nguy cơ sinh thái, nghiên cứu quan hệ giữa con người và môi trường tự nhiên.

  • LƯỜNG TÚ TUẤN

    Việc lý luận văn học thống nhất coi “ngôn ngữ là chất liệu của văn học” đã không vì thế mà dành cho cái chất liệu ấy một vị trí xứng đáng trong những luận thuyết và “diễn giải” của mình.

  • PHAN TUẤN ANH

    “Chẳng ai đi dưới bóng hàng cọ mà lại không hề hấn gì”… Ở đời, trong cuộc chơi, cả hai bên đều phải đi qua dưới bóng hàng cọ”.
                   (Nguyễn Xuân Khánh) [2,806]

  • TRẦN THIỆN KHANH

    “Mai kia, những cái tầm thường, mực thước sẽ mất đi, còn lại chút gì đáng kể của thời này, đó là Hàn Mạc Tử.”
                                (Chế Lan Viên)

  • CARSON MCCULLERS

    Khi tôi là một đứa bé chừng bốn tuổi, tôi cùng người bảo mẫu của mình đi ngang qua một tu viện.

  • MANU JOSEPH

    Xét về quan điểm và màu tóc của 50 nhà văn được lắp ghép cho một hội nghị kì quặc ở Edinburgh, thì cái giáo đoàn đó có thể gọi là “50 Sắc Xám.”  Tuy nhiên trong suốt năm ngày hội nghị, khởi đầu từ ngày 17 tháng Tám, hầu hết các nhà văn nhìn nhận rằng họ bị đẩy lui bởi loại sách kém học thức, loại sách bán chạy hơn tất cả các công trình của họ cộng lại.

  • NGUYỄN HỒNG TRÂN  

    …Minh triết là sự làm sáng tỏ một cách khôn khéo những chuyện trong trời đất có liên quan đến cuộc sống vật chất và tinh thần của con người trong xã hội một cách chân thực, rộng rãi, sâu sắc và nó có những năng lượng tiềm tàng rất quý giá đối với sự phát triển tâm đức và trí tuệ con người…

  • WALTER BENJAMIN 

    (Trích trong tác phẩm Illuminations do Hannah Arendt biên tập và đề tựa, 1968, bản dịch từ tiếng Đức của Harry Zohn)

  • NGUYỄN HỮU QUÝ 

    1.
    Tôi luôn tin rằng các nhà thơ đích thực là những người rất lương thiện. Bởi ngọn bút của họ (bây giờ có thể là bàn phím) hướng về tình thương yêu và sự cao đẹp của con người.

  • ĐOÀN HUYỀN

    Xuất hiện ở Việt Nam đã gần một thế kỉ, đến thời điểm này chủ nghĩa hiện thực tuy không còn giữ địa vị của một khuynh hướng sáng tác thống soái nhưng điều đó không có nghĩa những người cầm bút Việt Nam đã thực sự thoát khỏi từ trường của khuynh hướng sáng tác này.

  • LGT: Chuyên luận “Thơ như là mỹ học của cái khác” của Đỗ Lai Thúy nghiên cứu diễn trình thơ Việt từ 1946 đến nay thông qua sự chuyển đổi hệ hình mỹ học thơ từ tiền hiện đại sang hiện đại chủ nghĩa rồi hậu hiện đại.

  • NGUYỄN MẠNH TIẾN

    [Diễn giải về phê bình hiện tượng học văn học Lê Tuyên]