LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.
Anh em văn nghệ Hà Tĩnh thời chiến tranh chống Mỹ
Từ khi Thanh Minh vào bệnh viện, tôi không phải ra cơ quan [ở Vinh] mà làm việc ở nhà, nên có điều kiện đến với anh luôn. Đã hàng tháng nay anh điều trị ở đây bệnh vẫn chưa thuyên giảm, có điều không đến nỗi liệt là, nằm bẹp một chỗ. Lần nào tôi đến, anh cũng rất vui, ngồi nói chuyện thoải mái. Chúng tôi không nhắc đến bệnh tật mà chỉ trao đổi văn chương, thế sự như lúc ở nhà. Đôi khi, anh hỏi thăm bạn bè, thỉnh thoảng lại nói vài câu dí dỏm...
Nhớ lại ba tháng trước đây, anh đi bộ (thường thì anh đạp xe) xuống nhà tôi, trao cho một tập bản thảo dày cộm, bảo “Đọc đi” rồi vội vã ra về, không ngồi lại chuyện gẫu như mọi lần. Đó là tập hồi ký “Những mẩu đời không quên” anh vừa viết xong trang cuối hôm ấy. Tôi giở đọc ngấu nghiến.
Trong hồi ký, anh nói về làng Yên Tập, về xã Phù Lưu quê anh, về dòng họ Nguyễn và người cha, người anh yêu quý của mình, về những người làng, về những tri thức và bài học ban đầu, những cuộc gặp gỡ và suy nghĩ đầu tiên về mấy người cọng sản hoạt động bí mật vùng Ngàn Hống, về những ngày hoạt động sôi nổi sau cách mạng tháng Tám của anh... và về cả chuyện phấn đấu cai thuốc lá nữa. Một chương riêng chép lại bài thơ Khóc con. Một chương khác dành cho chuyến đi chơi xa cuối cùng, hồi tháng 6-1984, trở lại Huế, Sài Gòn... nơi anh đã sống và viết bốn mươi năm trước... Rất nhiều đoạn văn kể chuyện sinh động, hấp dẫn và dí dóm kiểu Thanh Minh... Nhưng tôi ngạc nhiên thấy anh “bỏ quên” một phần mà tôi cho là chính yếu. Ấy là việc anh học tập, lao động sáng tác suốt nửa thế kỷ...
Hôm ấy, ở bệnh viện, tôi nhắc, anh chỉ cười, không giải thích. Tôi hiểu rằng: anh cho sự nghiệp, văn chương của mình chẳng có gì đáng nói.
Tôi sống gần gủi, thân thiết với anh hơn ba chục năm, biết nhiều chi tiết về cuộc đời anh, hiểu tính nết của anh, thâm trầm, dí dỏm, mà cũng ngang tàng, “cộc” nữa... Tôi cũng đã đọc hầu hết tác phẩm của anh.
Thế mà có những việc khi đến thăm anh ở bệnh viện, tôi mới biết. Ví như, cái tiểu phẩm đầu tiên của anh đăng trên báo Tràng An số Tết năm 1937, đã khiến cho tờ báo nhận trợ cấp của “Chính phủ bảo hộ” ấy bị công kích là “thân cộng sản”!
Một hôm, tôi vừa đến, Thanh Minh liền trao cho tờ giấy chép hai bài thơ làm năm 1937... Một lúc sau, anh sực nhớ ra “À, còn bài này nữa” và đọc cho tôi chép thêm bài “Sơn cư” (Ở núi) làm năm 1942, lúc anh dựng túp lều tre dưới rú Hống:
“Bất tài minh chủ khí,
Đa bệnh cố nhân sơ.
Cuộc phong trần xông xáo mấy năm dư,
Đem sổ tính, ngày xuân tiêu chửa hết.
Ngàn dặm giang hồ chưa thấy mệt,
Vội gì trăng gió nhốt vào khoang!
Biết làm thơ, biết uống rượu, ngang tàng,
Khi đắc chí huênh hoang trong xó tối!
Bãi sậy nhấp nhô viền chái núi,
Làng mây thấp thoáng lẫn tầng non.
Cạnh đồi cao, riêng một túp lều con,
Rau cháo, vợ cùng con hú hí.
Thực vô bạo, cư vô yên là thế,
Nước non riêng một mảnh vẫy vùng.
Phong hoa tuyết nguyệt của chung.”
Hôm sau, anh lại trao cho tôi một tờ giấy nhỏ. Không phải là bài thơ mà là một chúc thư, giao cho tôi hai việc: “...1/ Tuyên truyền tác động, kể cả hoàn chỉnh bản thảo Hồi Ký của mình. Việc cho in được hay không là quyền của họ, chứ đâu phải quyền của ta. Được càng hay không thì cũng đành vậy!; 2/ Lúc nào thong thả, Đỉnh có thể lục tìm cho hết những ghi chép của mình trong cái rương đen, ở rương kê dưới đất đầu giường, ở giá, nghĩa là anh lục, anh soạn, anh gói riêng lại, giao cho bà nó và các cháu giữa làm kỷ vật gia đình – 12-1986 – Hưu”.(1)
Hôm được tin anh ở bệnh viện về nhà, tôi liền lên báo cho anh biết bài thơ Sự sống – Niềm tin của anh viết tháng trước, báo Nghệ Tĩnh đã đăng vào số ngày 16-12-1986. Lần này anh không ngồi dậy được, nhưng vẫn chuyện trò vui vẻ...
... Đến sáng 26-12, các anh Trần Hữu Thung, Trần Văn Kính, Nguyễn Quốc Anh từ Vinh vào. Chúng tôi cùng lên nhà anh.
Thanh Minh rất mệt, nhưng vẫn tỉnh táo, chị Cúc ngồi cạnh anh... Chúng tôi đứng vây quanh, xúc động. Anh mỉm cười, mấp máy môi, như muốn nói điều gì... Thung kéo tôi ghé ngồi lên chiếc chõng tre trước giường bệnh,... năm tay Thanh Minh, giọng run run xin đọc bài Văn tế sống bằng chữ Hán mới viết. Thanh Minh gật đầu, mỉm cười, rồi mắt lim dim, lắng nghe, trong khi chúng tôi cùng lặng im, cảm động. Đọc xong, Thung hỏi: “Thế nào anh, có được không?”. Thanh Minh lại mở mắt, mỉm cười, gật đầu, mấp máy môi, như muốn nói lời cảm ơn...
... Trước khi từ biệt anh, tôi dặn: “Khoan khoan đã nhé”. Anh gật đầu...
Nhưng ngày 28-12, chúng tôi đang họp cơ quan thì nhận được tin Thanh Minh đã mất, vội thu xếp về Hà Tĩnh ngay.
1-1987
Nguồn: Thái Kim Đỉnh - Văn Hóa Nghệ An
THANH TÙNG
Nhạc sĩ Phạm Duy không phải người Huế, nhưng qua những lần dừng lại ở Huế ông đã cho ra đời nhiều giai điệu trữ tình và nhiều hình ảnh đẹp, sâu lắng, trong đó thấp thoáng nhiều bóng hồng xứ Huế.
NGUYỄN QUANG HÀ
Để giữ gìn thành phố Huế, chính quyền miền Nam tổ chức nhiều đồn bốt để bảo vệ. Ở phía Nam Huế có đồn An Cựu gần núi Ngự Bình.
HUY CẬN - XUÂN DIỆU
(Trích)
DƯƠNG PHƯỚC THU
Ngày 22/7/2021, Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế tổ chức buổi tọa đàm khoa học lấy ý kiến cho Đề án xây dựng Phòng Truyền thống Văn học Nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên Huế, kể từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay.
DƯƠNG HOÀNG
Trải qua những năm tháng đấu tranh giải phóng dân tộc tập hợp dưới ngọn cờ của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, nhân dân Thừa Thiên Huế đã từng bước được rèn luyện, thử thách trong gian khó và cùng lớn lên với những tên gọi, những hoạt động, nhiệm vụ cũng thay đổi qua từng giai đoạn để phù hợp hơn với hoàn cảnh thực tại của phong trào cách mạng.
HÀ KHÁNH LINH
Còn sống sót sau 30/4/1975 chúng tôi thường tìm đến nhau dẫu có người thân thể không còn nguyên vẹn, hoặc mắc một số bệnh nào đó do di chứng của chất độc hóa học màu da cam Diocine của Mỹ, hoặc bị sốt rét ác tính, hoặc bị tra tấn khi rơi vào tay giặc…
NGUYỄN QUANG HÀ
Chừng 9 giờ tối anh em du kích ra đón chúng tôi ở nghĩa trang làng.
PHƯỚC HOÀNG
Ngày 23 tháng 8 năm 1945, tại sân vận động Huế, trước sự chứng kiến của hơn một vạn người, nhà thơ Tố Hữu, Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa Thừa Thiên tuyên bố, chính quyền đã về tay nhân dân, đồng thời ra mắt Ủy ban Nhân dân Cách mạng lâm thời Thừa Thiên.
MẶC HY
(Nhớ về nhạc sĩ Nguyễn Hồng và các bạn văn nghệ hy sinh 40 năm trước)
MINH ĐẠO
Khi tôi viết nhưng dòng này, tôi không còn nhìn thấy gì nữa. Bóng tối bao phủ lấy tôi đã 10 năm qua rồi.
DƯƠNG PHƯỚC THU
Nhà báo - Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh Võ Giáp, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911, tại làng An Xá, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho yêu nước, mà thân phụ là một “thầy đồ” trường huyện.
XUÂN HOÀNG
Hồi ký
(Trích Chương V, tập II - "Trường tư thục Thuận Hóa")
PHẠM PHÚ PHONG
Người già thường hay nghĩ ngợi về quá khứ. Không biết có phải vì thế hay không mà khi đọc lại Biên niên Sông Hương[1], tôi bỗng nhớ đến một cuộc hội thảo về Tạp chí Sông Hương diễn ra cách đây gần tròn 37 năm.
VŨ THỊ THANH LOAN
1. Lemur Nguyễn Cát Tường là một họa sĩ trẻ tài năng của khóa IV trường Mỹ thuật Đông Dương (1928 - 1933). Sau khi tốt nghiệp, ông thường xuyên cộng tác với báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn.
HOÀNG THỊ NHƯ HUY
Chiếc áo dài đầu tiên đời tôi được mẹ may vào năm tôi lên Đệ Thất (lớp 6 bây giờ). Biết nói sao niềm vui sướng của tôi khi lần đầu mặc chiếc áo dài ấy!
TRẦN TRUNG SÁNG
Khoảng mùa đông 1970 - 1971, khi đang còn đang học lớp 10, trong một chuyến phiêu lưu lãng mạn và rồ dại nhất của tuổi thiếu niên, tôi có lần lạc bước đến một xóm nhỏ gần bên cầu Gia Hội, và đã gặp ông: họa sĩ Lê Vinh, người họa sĩ vẽ tranh xi-nê lừng danh nhất xứ Huế thời bấy giờ. Lúc này, ông chừng độ tuổi 30, người dong dỏng, tóc vuốt ngược, sơmi màu, quần jean, giày cổ cao, dáng dấp phong trần, như bước ra từ màn bạc!
HOÀNG PHƯỚC
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, cuộc bầu cử Quốc hội khóa đầu tiên sau Cách mạng Tháng Tám đã thành công rực rỡ, tiếp đó, ngày 24 tháng 2 năm 1946, cử tri toàn tỉnh Thừa Thiên phấn khởi nô nức đi bầu Hội đồng Nhân dân tỉnh và Hội đồng Nhân dân thành phố Huế. Đây là ngày hội lớn chưa từng có trong lịch sử của toàn thể Nhân dân Việt Nam sau ngày đất nước được độc lập.
TRẦN NGUYÊN HÀO
Năm 1946, lần đầu tiên toàn thể người dân Việt Nam được hưởng và thực thi quyền làm chủ, tự do lựa chọn bầu ra những người đại diện xứng đáng gánh vác công việc chung của đất nước; cùng với đó là những tư tưởng về dân chủ, pháp quyền của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bài học giá trị cho mai sau.