Sông Hương - tặng phẩm của thiên nhiên xứ Huế

09:32 10/02/2009
TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

Nhánh Hữu Trạch dài chừng 56 km, xuất phát từ độ cao tuyệt đối khoảng 700 mét ở vùng núi trung bình phía đông A Lưới - Nam Đông, chảy cuồn cuộn về hướng Tà Lương, Bình Điền, băng qua 14 ghềnh thác đầu nguồn về hội nhập với Tả Trạch ở ngã ba Bằng Lãng.
Nhánh Tả Trạch cũng khởi nguồn từ vùng núi trung bình phía đông A Lưới - Nam Đông, với độ cao tuyệt đối ở đầu nguồn ước chừng 1.100 mét, va đập dữ dội vào 55 thác ghềnh, băng qua khoảng 61 km từ điểm khởi đầu đến ngã ba Bằng Lãng, hợp lưu với Hữu Trạch tạo thành sông Hương, uốn lượn quanh co qua kinh thành Huế, chia nước vào các nhánh sông nhỏ, sông đào, xuôi về Bao Vinh, nhập với sông Bồ ở ngã ba Sình, lững lờ đổ ra phá Tam Giang.
Nhánh sông Bồ bắt nguồn từ phía đông nam A Lưới, ở độ cao tuyệt đối khoảng 650 mét, băng qua 31 thác ghềnh, chảy về hướng Hương Trà, Phong Điền, xuôi về hợp lưu với sông Hương ở ngã ba Sình với chiều dài khoảng 90 km.
Lưu vực mỗi nhánh sông trải ra khá rộng, tạo thành một dạng lưu vực hình nan quạt có diện tích đến 2.713 km2, chiếm hơn 54% diện tích tự nhiên của tỉnh Thừa Thiên Huế.

• Bao quanh sông Hương là một hệ thống thực vật đa dạng, mang sắc thái của một vùng địa lý thổ nhưỡng nhiệt đới đặc thù miền Trung Việt . Từ xưa, rừng rậm mênh mông đã trải dài từ đầu nguồn đến gần vùng kinh thành Huế. Địa bạ thời Tây Sơn vào thế kỷ XVIII của làng Xuân Hoà có ghi sự kiện vua Quang Trung bàn với các bô lão làng Hà Khê về việc đốn những cây gỗ lớn ở khu rừng quanh núi Thiên Mụ để đóng thuyền chuyển quân ra Bắc. Ngày nay dù đất rừng đã bị thu hẹp, thành phần cây rừng bị biến động nhiều, nhưng rừng ở Thừa Thiên Huế vẫn còn rất đa dạng.
Che phủ vùng đồi núi đầu nguồn sông Hương vẫn còn những loại cây gỗ rừng có giá trị cao như kim giao, trầm, gõ, kiền kiền, lim xanh, giổi, huệnh, sến, chua, thông hai lá... sống chen với vô vàn cây thuốc, cây đặc sản rừng như địa y, dương xỉ, lá nón, cây móng trâu, sim, mua, mai vàng, mai núi, trang rừng, ngũ sắc, phong lan, nấm mối, nấm tràm, nấm mộc nhĩ, nấm dại v.v... và bạt ngàn lau lách, lồ ô, bạt ngàn hoa cỏ dại. Tài liệu thống kê của các nhà nghiên cứu đã tẩn mẩn ghi chép dọc sông Hương và vùng đầm phá Thừa Thiên Huế đã xuất hiện 224 loài tảo, 272 loài nấm, 5 chi địa y, 10 loài rêu, 16 loài hạt trần và 1.500 loài hạt kín, kể cả thực vật hiển hoa trên mặt đất và thực vật hiển hoa dưới nước.

Ở đồng bằng duyên hải dọc sông Hương, kéo dài từ vùng giáp ranh gò đồi đến vùng đất nội đồng, cồn cát ven biển và đầm phá phía đông, thảm thực vật ít đa dạng và phong phú so với vùng núi rừng, nhưng sông Hương vẫn là bà mẹ nuôi dưỡng những loài cây lương thực thực phẩm, nuôi những cánh đồng lúa nước, sắn, khoai, bắp, đậu, môn, nưa..., những nương vườn mít, chuối, nhãn, dâu, đào, chanh, bưởi, thanh trà, giáng châu, thơm, chè... Từ lâu đời con người xứ Huế đã chắt chiu những đọt rau khoai, rau dền, rau muống, rau tập tàng, những dưa hường, dưa gang, cà tím, cà pháo, bí đỏ, bí xanh, mướp ngọt, mướp đắng, bầu dài, bầu tròn, hẹ, hành, ném, tỏi, ớt, tiêu, gừng, riềng... để tặng cho đời những món ăn cay nồng, thấm tháp hương vị mà những món chay, món mặn, những món chè, món cháo, món bánh xứ Huế luôn tạo được phong vị độc đáo. Chỉ riêng loại cây gia vị như ớt, Thừa Thiên Huế đã cung cấp một tập đoàn giống phong phú như ớt chỉ thiên, ớt tím, ớt trắng, ớt xanh, ớt vàng, ớt hiểm, ớt cao sản... đến nỗi chỉ nhìn vào "cái nết ăn ớt" đã biết người từ xứ Huế mà ra.

Ở tiểu vùng gò đụn cát, hệ thực vật rất nghèo nàn. Loài thực vật thân gỗ nguyên sinh còn rất ít, thỉnh thoảng mới bắt gặp những cây mù u chắn cát ngày xưa, còn lại hiện nay là những thân cây bụi mọc thành truông với các loài ô rô, găng, cát đằng..., với những rặng dương liễu, phi lao, keo lá tràm... nhưng có điều lạ là hệ thực vật tiểu vùng đầm phá và biển ven bờ lại rất đa dạng, bao gồm cả thực vật phù du, cỏ thuỷ sinh, thực vật rừng ngập mặn. Các nhà khoa học đã thống kê được ở vùng đầm phá có 229 loài thực vật phù du thuộc 4 ngành chủ yếu là tảo silic, tảo giáp, tảo lục, tảo lam mà rau câu xứ Huế là một loài tảo rất có giá trị về nguồn lợi thuỷ sản. Ở vùng biển ven bờ còn có 324 loài thực vật phù du thuộc các ngành tảo nâu, tảo đỏ ở vùng cửa sông, những loài thực vật ngập mặn như cỏ gà nước, lác, sú, vẹt, đước, mắm... đã một thời sinh sôi, tạo thành rừng ngập mặn xứ Huế. Bám vào đáy đầm phá còn có 16 loài cỏ thuỷ sinh lớp hành, 7 loài rong mái chèo, rong đuôi chó, rong khía, cỏ lá hẹ... là nơi cư trú cho động vật đầm phá và bao đời nay còn là nguồn thức ăn cho gia súc, là phân bón hữu cơ cho cây khoai lang, ớt, thuốc lá của người dân quê ven đầm phá.

• Đầu nguồn sông Hương, đặc biệt là những vùng có độ cao tuyệt đối trên 700 mét, từ xưa đến nay vẫn là vùng đệm, vùng giao lưu của nhiều phức hệ động vật nhiệt đới phương bắc, phương nam, là khu vực địa hình rất lý tưởng cho nhiều động vật lớn, nhất là các lớp thú rừng như voi, cọp, báo, gấu, bò rừng, vượn, khỉ, vóc vá, đười ươi, tê tê... Vùng núi thấp là nơi cư trú của những loài thú nhỏ như hươu, nai, hoẵng, cầy, mang, lợn rừng, cú mèo, thỏ, nhím, chồn...

Dọc vùng gò đồi và đồng bằng duyên hải, những cư dân bản địa sống cách ngày nay chừng ba, bốn ngàn năm đã từng thuần dưỡng nhiều loài động vật như trâu, bò, lợn, chó, mèo, gà, vịt, ngỗng, bồ câu...; biết đánh bắt những loài chim thú, ếch nhái, bò sát, cá tôm... Đặc biệt, từ đầm phá ven biển, cư dân sống ven sông Hương đã khai thác từ lòng sông, từ vùng phá Tam Giang màu mỡ, từ những giải biển ven bờ nhiều sản phẩm cá nước ngọt, cá nước lợ, thuỷ hải sản phong phú và đa dạng, từ tôm tép đến cá tràu, cá thệ, cá bống, cá dìa, cá hanh, cá gáy, cá liệt, cá nâu, cá hồng, cá mú, cá ác mó, cá chim, cá vượt, cá đối, cá đuối, cá trích, cá chuồn, cá cơm ... đến mực, tôm, cua, vọ vọ, rạm, ốc, hến, trai, trìa... thơm ngon của xứ Huế, chế biến thành những đặc sản lừng danh như tôm chua, cơm hến, mắm ruốc... , góp phần hình thành một dòng nghệ thuật độc đáo: nghệ thuật ẩm thực Huế.

Nằm giữa tiểu vùng khí hậu đặc biệt, nhiệt độ trung bình quanh sông Hương giao động từ khoảng 18 đến 24 độ C, nhưng vào những đợt gió mùa đông bắc tràn về, nhiệt độ không khí lại hạ thấp đến khoảng từ 5 đến 8 độ C, vào những đợt gió nóng tây nam thổi đến, hơi nước của sông Hương cũng không đủ để điều hoà khí hậu, có khi nhiệt độ nóng tới 38, 40 độ C. Với số ngày mưa trong năm rất cao, lượng mưa lớn, độ ẩm trung bình của tháng giao động từ 79% đến 92%, những ngày nắng nóng cũng chỉ giảm đến mức 40% đến 60%, từ vùng núi đầu nguồn đến cửa sông Hương là chiếc nôi chờ đón những loài động vật từ phương xa thiên di đến xứ Huế hằng năm, kể cả những đợt di cư từ mùa mưa lạnh rồi mùa nắng nóng, quanh sông Hương lại là nơi hội tụ của nhiều loài động vật xứ lạ, tạo thành một vùng sinh thái động vật rất đa dạng.

Các nhà khoa học đã từng phát hiện quanh sông Hương có nhiều loài động vật di nhập từ phía bắc, phía nam Việt Nam, từ Lào, từ vùng Hoa Nam của Trung Quốc, thậm chí từ cả vùng Đông Nam Á và xứ Ấn Độ ở rất xa về cộng cư. Đến từ hai mùa mưa nắng để tìm vùng khí hậu thích hợp, để kiếm ăn và sinh sản rồi định cư ở xứ Huế có cả những loài chim nước, chim ăn cá, chim ăn côn trùng như ó cá, gà nước vằn, cuốc ngọc nâu, sẻ mỏ rộng, quạ khoang, khứu xám, khứu bạc má, gà lôi lông tía, công, cu xanh...; có cả những loài thú khỉ mốc, khỉ đuôi dài, voọc bạc má, gấu chó, voi, bò tót, sóc bụng xám, báo lửa, báo gấm, tê tê vàng...; có cả loài bò sát rùa háp, rắn lục rừng, rắn lục núi; cả loài ếch nhái như cóc chân dài; loài cá như cá chình gai, cá chình hoa, cá bám đá, cá trê đen, cá trê trắng, cá măng sữa...

Tất cả đã hợp lại rất đông vui. Kết quả điều tra cơ bản bước đầu về tài nguyên sinh vật ở Thừa Thiên Huế cho thấy ở đây đã có đến 108 loài thú với 28 họ 12 bộ, 333 loài chim với 53 họ 15 bộ, 74 loài bò sát với 17 họ 2 bộ, 296 loài cá với 70 họ 17 bộ, 33 loài lưỡng thê với 6 họ 1 bộ. Thừa Thiên Huế trở thành một trong số rất ít những trung tâm đa dạng động vật Việt và của cả khu vực; đồng thời cũng là một trong những địa phương còn bảo lưu được nhiều động vật quý hiếm đặc hữu của đất nước. Đặc biệt trong 814 loài động vật có xương sống đã được xác định và phân bố tại các hệ sinh thái nội địa ở Thừa Thiên Huế, các nhà khoa học đã thống kê được 74 loài động vật quý hiếm theo quy định của sách đỏ Việt Nam, trong đó có 16 loài chim, 8 loài cá, 4 loài ếch nhái, 16 loài bò sát, 30 loài có vú. Mức độ quý hiếm nầy rất cao so với nhiều vùng đa dạng sinh học trong khu vực và trên cả nước. Trong sự đa dạng đó, những loài động vật quần cư quanh sông Hương chiếm một tỷ lệ cực lớn.

• Tặng phẩm của thiên nhiên xứ Huế, sông Hương cũng như nhiều dòng sông trên trái đất nầy vẫn có những lúc chuyển mình giận dữ, tuôn nước lũ từ đầu nguồn về hạ lưu, nhận chìm biết bao sinh mạng của con người, tàn phá dữ dội môi trường sống; có lúc sông lại cạn kiệt để nhường cho nước mặn của biển tràn vào, giết chết những cánh đồng xanh tươi. Ở đầu nguồn đến tận cửa sông vẫn ẩn chứa mhững cây độc, nấm độc, những thú dữ, động vật gây bệnh và phá hại cuộc sống của con người, như mặt trái của bức tranh thiên nhiên, như yêu tinh vẫn quanh quẩn đâu đó trên chốn bồng lai tiên cảnh
Phải chăng sứ mệnh của con người là sống với thiên nhiên, sống cùng thiên nhiên. Bằng trái tim nhân hậu và trí tuệ sáng suốt của con người, loài người phải tiếp tục khám phá thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên để chủ động ngăn ngừa tai ương bằng một cuộc sống được tổ chức bền vững, giàu tính nhân văn. Phải chăng sống với sông Hương là phải sống với tấm lòng biết nâng niu, gìn giữ một tặng phẩm quý báu của trời đất, đừng ai nỡ dang tay dày vò sông Hương. Nếu không, e rằng  một ngày không xa lắm, tặng phẩm  thiên nhiên  xứ Huế cũng sẽ trở thành trái độc giữa lòng của Huế.
T.T.C

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...