Không chỉ bị tàn phá bởi thời gian, nhiều công trình, di tích - nhất là các đình, chùa - còn bị biến dạng qua các công cuộc bảo tồn, trùng tu mà ở đó những người trông coi di tích và những người làm công đức tự cho mình quyền được can thiệp vào chuyên môn, còn chính quyền sở tại thì cấp phép trùng tu, tôn tạo một cách đại khái, dễ dàng, trong khi vai trò của các nghệ nhân lại chưa được coi trọng đúng mức.
Ngôi chùa mới xây lênh khênh chắn ngay mặt tiền của ngôi chùa Vĩnh Khánh cũ. Ảnh: Lê Thiết Cương
Di tích - nạn nhân của sự thiếu hiểu biết và lòng tham
Một điều dễ nhận thấy, các di tích văn hóa, lịch sử ở Việt Nam (đình, chùa, miếu, mạo,…) được tạo ra bởi các nguyên vật liệu chủ yếu gắn với những nghề thủ công truyền thống của nước ta như: nghề gốm, nghề mộc, nghề sơn. Điều đó có nghĩa, việc “đòi hỏi” các công trình phải trường tồn với thời gian, không bị hư hại gì là điều không thể có. Trùng tu, tôn tạo di tích là việc làm đúng và cần thiết để giảm thiểu hư hại của các di tích, nhưng không phải ai cũng có nhận thức và cách làm đúng về quá trình này.
Nhiều năm trở lại đây, không ít công trình lịch sử có giá trị được trùng tu, tôn tạo đã đánh mất đi vẻ đẹp hài hòa của nó. Ở Hà Nội có thể điểm qua một số công trình như: Tu bổ, tôn tạo tổng thể đình và đền Kim Liên (khởi công tháng 10/2008, tổng đầu tư hơn 36,6 tỷ đồng); trùng tu, tôn tạo chùa Trấn Quốc (khởi công từ tháng 6/2009, kinh phí ước tính 15 tỷ đồng); trùng tu, tôn tạo đền Voi Phục (khởi công từ tháng 7/2009, kinh phí ước tính 18 tỷ đồng). Điểm chung của cả ba công trình này là đều phá đi xây lại cổng vào theo một kiểu tam quan chung (ba lối đi, trong đó cửa ở giữa thường lớn hơn hai cửa bên). Bên cạnh đổi hướng cổng cũ đình Kim Liên, người ta gần như “bê nguyên” tam quan chùa Láng – một trong 10 tam quan đẹp nhất Việt Nam - để làm cổng cho đền Voi Phục, vẻ đẹp hài hòa cũng như các chi tiết trang trí có tính biểu tượng, nghệ thuật cao ở cổng cũ cũng hoàn toàn biến mất.
Thậm chí, tháng 8/2012, khi người ta đã phá dỡ và xây mới gần như hoàn thiện nhà Tổ cổ và gác Khánh cổ của chùa Trăm Gian (Chương Mỹ, Hà Nội) - một ngôi chùa từ thời Lý được xếp hạng Di tích Quốc gia hơn 40 năm - thì những người có người có thẩm quyền mới phát hiện ra.
Không trực tiếp phá dỡ công trình cũ, nhưng việc xây công trình mới trong một tổng thể kiến trúc cũ, phá vỡ cảnh quan chung, cũng là một cách làm sai lầm trong trùng tu, tôn tạo di tích. Ở trường hợp này có thể dẫn ra ví dụ về tháp Bình Sơn trong khuôn viên chùa Vĩnh Khánh (Vĩnh Phúc) - một trong ba ngôi tháp đất nung (gốm không men) cổ, tiêu biểu cho lối kiến trúc thời nhà Trần, cao 13 tầng (hiện còn 11 tầng), một di tích lịch sử, nghệ thuật có giá trị cao vào loại bậc nhất Việt Nam hiện nay.
Tháp đã trải qua giai đoạn đại trùng tu trong thời kì đất nước có chiến tranh (từ năm 1971-1973) trước nguy cơ bị sụp đổ do nhiều trận lũ lụt trước đó. Xưởng phục chế đã được lập ra dưới sự phối hợp của nhiều tổ chức và cá nhân như Xưởng Phục chế di tích của Bộ Văn hóa, Trường Cao đẳng Mỹ thuật Công nghiệp Trung ương, Hợp tác xã cao cấp gốm sành Hương Canh, Sở Văn hóa - Thông tin Vĩnh Phú, các kỹ thuật viên, các chuyên viên về sành - gốm, các nghệ nhân, cán bộ chụp ảnh, cán bộ đồ họa và in thạch cao, đã đảm bảo việc phục dựng tháp đúng từng chi tiết như nguyên tác.
Thế nhưng thời gian gần đây, trong sân chùa Vĩnh Khánh lại xuất hiện một ngôi chùa mới, cao tương đương ngôi nhà bốn-năm tầng, chắn trước không gian một nếp chùa Việt cũ điển hình ở đồng bằng sông Hồng với kết cấu năm gian nằm ngay sau nó. So với ngôi chùa cũ với hệ thống tượng Phật còn nguyên, rất đẹp thì ngôi chùa mới xây với vài ba pho tượng mới, sơn xanh đỏ lòe loẹt, đèn màu nhấp nháy không hề có giá trị thẩm mĩ, nghệ thuật nào.
Điều này, chỉ có thể là do thiếu hiểu biết, do đạo đức văn hóa của con người đã thực sự xống cấp. Vì nếu có hiểu biết và có văn hóa thực sự, thì người trụ trì các chùa hay những người trông coi di tích nói chung không bao giờ tự cho mình quyền làm chủ đối với di tích đó; những người trong chính quyền sở tại không nghiễm nhiên cấp phép cho việc trùng tu, tôn tạo khu di tích một cách đại khái, dễ dàng.
Song đáng nói hơn là nhận thức và văn hóa của những người làm công đức, góp tiền xây lại đình, chùa…; những người hành lễ; người tu hành. Bởi nếu người đi lễ không cho rằng đến một ngôi chùa to sẽ xin được nhiều lộc thì sẽ không nảy sinh nhu cầu xây những ngôi đình, ngôi chùa “hoành tráng”; nếu người làm công đức chỉ làm công đức đơn thuần, không cho rằng mình có quyền đưa ra ý kiến về việc xây dựng, hay chính quyền địa phương không quá ham muốn có những di tích thu hút đông khách du lịch để mở các dịch vụ thu phí đi kèm thì câu chuyện đã sang một hướng khác.
Phật dạy rằng “tham phúc cũng là tham” cho nên núp dưới chiêu bài “du lịch tâm linh”, các thành phần nói trên đã “thống nhất và cấu kết” với nhau trong một mục đích chung là “đồng tiền”, dù dưới hình thức này, hình thức khác. Một xã hội chạy theo đồng tiền là hết sức sai lầm, bởi vì không phải cái gì cũng có thể đem ra kinh doanh kiếm chác được, nhất là đối với các công trình mang giá trị văn hóa, lịch sử.
Phục chế, trùng tu: Phải học từ nghệ nhân
Đối xử với các công trình văn hóa một cách có văn hóa phải được xem là gốc trong giữ gìn, bảo tồn các khu di tích và điều đó phải được thể hiện ở ba điểm sau.
Trước hết, phải có quan niệm đúng về bảo tồn, trùng tu. Muốn vậy, chúng ta buộc phải học quan niệm về bảo tồn, trùng tu của các nước trên thế giới và áp dụng ở Việt Nam cho phù hợp. Bảo tồn, trùng tu cần đảm bảo nguyên trạng công trình đã có, hạn chế tối thiểu mức độ sai lệch so với nguyên bản.
Thứ hai, chúng ta cần mở các lớp học về phục chế có cấp học bổng và mời nghệ nhân ở các làng nghề về dạy (tập trung vào nghề mộc, nghề gốm và nghề về sơn), mỗi khóa học khoảng 50 người. Hai năm đầu học các môn đại cương về lịch sử mỹ thuật, hệ thống các di tích văn hóa-lịch sử, các kiến trúc điển hình qua các triều đại, trang trí họa tiết của các di tích trong từng thời kì… Hai năm sau đi vào chuyên ngành cụ thể, học và thực hành, nghiên cứu gỗ, gốm, gạch ngói, sơn mài, sơn quang dầu; học cách thếp lại một pho tượng hay làm câu đối chất liệu sơn mài trên gỗ; cách làm con kìm, con nghê, họa tiết tranh trên bờ nóc các công trình…
Đây là việc làm hết sức cần thiết bởi lớp nghệ nhân kỳ cựu không thể sống mãi để đợi chúng ta, nếu chúng ta không biết tận dụng họ thì khả năng những di tích lịch sử biến mất trong giai đoạn tiếp theo là điều khó tránh khỏi.
Có quan niệm phục chế đúng, có những người thợ phục chế giỏi vẫn chưa đủ, một điểm quan trọng không kém là nguồn nguyên liệu phải chuẩn. Chẳng hạn, để làm ra màu sơn đen, màu cánh gián đúng chuẩn thì vùng trồng cây sơn ở Thanh Sơn (Phú Thọ) là nơi tốt nhất để khai thác. Hoặc khi thếp vàng lên tượng Phật mà dùng vàng pha vàng Nhật, dùng quỳ không đúng kích thước thì cũng không thể nào đẹp được…
Trùng tu, tôn tạo, phục hồi di tích là một quá trình lâu dài cần được tiến hành một cách cẩn thận, bài bản. Làm thế nào để giá trị và vẻ đẹp của những di tích đến được với nhiều người trong khi lại hạn chế được tối đa mức độ xuống cấp các công trình luôn là một bài toán nan giải không chỉ ở Việt Nam mà trên toàn thế giới. Phải cấp quota du lịch cho các khách du lịch đến thăm di tích như nhà văn Nguyên Ngọc từng đề xuất cấp quota khách du lịch thăm Hội An; phải có chính sách cụ thể cân bằng giữa phát triển du lịch và bảo tồn thì di tích mới có thể phát huy được hết giá trị và ý nghĩa của nó theo thời gian.
Nguồn: Lê Thiết Cương - Tia Sáng
Có khi nào bạn lúng túng khó xử khi trong nhà có quá nhiều sách? Sách tự mua. Sách được tặng. Sách tự làm ra. Sách của ngày xưa. Sách mới bây giờ. Theo năm tháng, sách trong nhà cứ chất chồng lên mãi...
Cục Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm vừa ban hành Quy chế về hoạt động giám định tác phẩm mỹ thuật - tác phẩm nhiếp ảnh. Quy chế này có hiệu lực từ ngày 1-10-2018 với yêu cầu 100% hội đồng tán thành mới đi đến kết luận cuối cùng về tác phẩm được giám định là thật hay giả…
Ngày 15/10, tại Hà Nội, Bộ VHTTDL đã tổ chức cuộc họp nhằm chuẩn bị cho phiên họp Hội đồng cấp Nhà nước xét tặng các danh hiệu nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú (NSND, NSƯT) và danh hiệu nghệ nhân nhân dân, nghệ nhân ưu tú (NNND, NNƯT) năm 2018.
Nghệ thuật truyền thống dân tộc như: tuồng, chèo, cải lương, kịch hát dân tộc… đang kêu cứu, vì người xem ngày càng giảm, người theo nghề ngày càng hiếm. Hiện nghệ thuật truyền thống dân tộc đang thiếu hụt trầm trọng lực lượng thay thế trên tất cả các lĩnh vực, như diễn viên, nhạc công, biên kịch, đạo diễn…
Từ góc nhìn của nhà quy hoạch, Giám đốc SLAB, Đại học Nam California (Mỹ), GS. Annette Kim cho rằng, vỉa hè đa chức năng là một phần tạo nên thành phố sôi động, bền vững, đóng góp vào sinh hoạt cộng đồng.
Kết thúc loạt bài này, chúng tôi mong muốn, những nhận thức về văn hóa ngày càng hoàn thiện tiến gần đến giá trị cốt lõi nhất của văn hóa: Hình thành nhân cách con người và cốt cách của một dân tộc, trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng để đất nước phát triển bền vững.
Hiện nay, nguy cơ mai một giá trị truyền thống làng xã rất lớn, ở cả chiều rộng và chiều sâu. Việc bảo tồn các giá trị di sản trong quá trình quy hoạch không gian kiến trúc làng không thể chậm trễ và trì hoãn. Trong đó, bảo tồn thích ứng và phát triển tiếp nối là phương thức mà giá trị tinh thần của di sản được kế thừa, hoàn thiện.
Chỉ đạo nghệ thuật được ví như người giữ lửa, bảo đảm khuynh hướng nghệ thuật, phong cách sáng tạo của đơn vị. Tuy nhiên, nhiều nhà hát của Hà Nội đang thiếu đội ngũ chỉ đạo nghệ thuật tài năng, chuyên nghiệp, dẫn tới sáng tạo ít mang tính đương thời, chưa có nhiều tác phẩm đỉnh cao có thể cạnh tranh với các loại hình nghệ thuật khác.
Mặt nạ giấy bồi, đèn kéo quân, tàu thủy sắt tây... từng mang lại niềm vui cho biết bao đứa trẻ mỗi độ Tết Trung thu. Nhưng trước sự phát triển của xã hội, những món đồ chơi truyền thống này liệu có cần thay đổi để đáp ứng thị hiếu trẻ nhỏ “thời 4.0”?
Vài năm trở lại đây, thị trường sách thiếu nhi trong nước đã có những chuyển biến với nhiều tín hiệu khởi sắc, nhưng vẫn cần nhiều cú hích để thực sự ổn định.
Dù trẻ con ngày nay ít còn chơi đèn kéo quân nữa, nhưng mỗi mùa Trung thu đến, gần ngày rằm tháng 8, nghệ nhân Vũ Văn Sinh lại cặm cụi làm những chiếc đèn truyền thống để giữ nghề, hoài niệm tuổi thơ và tưởng nhớ tổ tông.
Năm 2018, cải lương đánh dấu sự xuất hiện đúng 100 năm trên mảnh đất Nam bộ. Ngoài vở diễn “Thầy Ba Đợi” tri ân người khai sáng bộ môn nghệ thuật này, bộ phim “Song Lang” cũng ra mắt công chúng để góp thêm tình yêu cho khán giả hôm nay đối với loại hình sân khấu độc đáo trong tâm thức cư dân mở đất. Con đường đã qua của cải lương rất nhiều thành tựu, nhưng con đường phía trước của cải lương cũng không ít thử thách!
Dù còn nhiều khó khăn nhưng giới bạn đọc đang dần tiếp cận và sử dụng những sản phẩm trong cuộc cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 để có thể thỏa mãn nhu cầu tiếp nhận thông tin hữu ích.
Vùng đất phía Tây Hà Nội còn nhiều ngôi đình làng là biểu tượng của vùng xứ Đoài, với những giá trị đặc sắc về kiến trúc và điêu khắc. Tuy nhiên, hiện nay, các ngôi đình này đối diện với nguy cơ xuống cấp và bị hủy hoại. Đã có rất nhiều công trình bị “trùng tu như phá”, gần đây nhất là tại đình Lương Xá, xã Liên Bạt, huyện Ứng Hòa.
Mong muốn nghiên cứu, phục dựng, bảo tồn lại các nét đẹp trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, ngày 8-8, Ỷ Vân Hiên với đội ngũ các bạn trẻ chuyên nghiệp, có kiến thức chuyên môn cùng với lòng nhiệt thành, sức sáng tạo mạnh mẽ đã ra mắt tại Hà Nội.
Trong 6 tháng đầu năm 2018, ngành xuất bản đã gây được tiếng vang trong xã hội với nhiều cuốn sách có nội dung tốt, mang tính thời sự... Số lượng xuất bản phẩm vi phạm về nội dung có giảm so với cùng kỳ năm 2017 nhưng vẫn chưa có giải pháp khắc phục triệt để.
Tiếp bước sự sáng tạo với sơn mài của các bậc thầy thời kỳ hội họa Đông Dương, ngày nay nghệ thuật sơn mài đương đại vẫn kế thừa và phát triển với nhiều lối biểu hiện và tìm tòi mới. Tuy nhiên, bên cạnh hiệu quả nghệ thuật, nhiều sáng tạo cũng gây tranh luận.
Tính đến thời điểm này, Việt Nam có 12 di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh. Thế nhưng, bên cạnh niềm vinh dự thì những danh hiệu cũng đang tạo ra nhiều sức ép không nhỏ với các nhà quản lý văn hóa trong công tác quảng bá, bảo tồn và phát triển.
Tuồng là môn nghệ thuật sân khấu truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, cũng giống như những loại hình nghệ thuật truyền thống khác, tuồng đang đứng trước nguy cơ mai một. Ở đó việc bảo tồn để duy trì và phát triển nghệ thuật tuồng đang là “bài toán” không dễ gì tìm được câu trả lời thấu đáo.
“Ok (đồng ý) hay không thì mày nhớ confirm (xác nhận) cho người ta nha”; “giao đứa nào set up (sắp xếp) vụ này ngay và luôn đi chứ hứa rồi bỏ đó không hà”; “go now (đi ngay), mà free (miễn phí) thiệt hả?”; “nay được ở nhà full (cả) ngày”… Đó là vài trong số những câu Tây không ra Tây, ta chẳng ra ta mà giới trẻ Việt đang sử dụng trong cuộc sống hàng ngày.