Phạm Hồng Thái và tiếng bom thức tỉnh chân lý

10:04 18/06/2015

TRANG ĐOAN

“Một tiếng lôi đình kinh vũ trụ
Tấm gương trung nghĩa động thần minh.”[1]

 

Liệt sĩ Phạm Hồng Thái - Ảnh: internet

Hơn 90 năm trước, một tiếng nổ đã vang lên tại Quảng Châu [Trung Quốc] làm chấn động dư luận quốc tế. Lịch sử sẽ không quên khoảnh khắc ngày 19/06/1924, khi tiếng bom ám sát viên toàn quyền Đông Dương Méc - lanh vang lên tại khách sạn Victoria, thuộc địa phận tô giới Sa Diện[2]. Vị anh hùng đã tạo nên sự kiện ấy, đã đánh một mốc son trong  lịch sử Việt Nam cận đại ấy là Phạm Hồng Thái (1895-1924)[3], người con của mảnh đất Do Nha, nay là xã Hưng Nhân huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.

Từ sự thức tỉnh của cá nhân…

Sinh ra trên mảnh đất có truyền thống đấu tranh Cách mạng, lớn lên trong cảnh nước mất nhà tan lại sớm được tiếp cận với những tư tưởng đấu tranh của các bậc cha anh, Phạm Hồng Thái từ nhỏ đã không khỏi trăn trở và nuôi trong mình chí lớn cứu nước.

Hồi nhỏ, Phạm Hồng Thái là một cậu bé ít nói nhưng rất chăm chỉ học tập và làm việc. Khoảng 14 tuổi, cậu đã khá thông thạo chữ Hán và sau đó xin gia đình theo học tiếng Pháp. Học được 3 năm, cậu thất vọng  vì thấu rõ “Chính phủ Pháp thật là một nhà chế tạo dân tộc ta thành trâu ngựa”[4]. Nung nấu ý chí phải lật đổ Chính phủ Pháp, Phạm Hồng Thái bỏ học về quê và bắt đầu chuẩn bị những kế hoạch của mình.

Từ năm 1919 đến 1923, Phạm Hồng Thái theo làm tại các nhà xưởng như Nhà máy Điện Bến Thủy, Nhà máy Diêm, Nhà máy xi măng Hải Phòng... Tại đây, cậu được tiếp xúc với tầng lớp công nhân, chứng kiến sự áp bức bóc lột tàn tệ của bọn chủ xưởng và đồng thời được tiếp cận với nhiều thông tin trên báo chí hoặc qua nghe ngóng được về các phong trào đấu tranh trong cũng như ngoài nước. Đó chính là những luồng sáng tư tưởng đã tác động mạnh mẽ tới Phạm Hồng Thái. Phạm Hồng Thái đứng ra tổ chức công nhân tại Bến Thủy  bãi công phản đối nhưng rút cục không có kết quả. Tuy nhiên chính những hoạt động ấy đã giúp tổ chức “Tâm tâm xã” hay còn gọi là “Tân Việt thanh niên đoàn” ở Trung Quốc biết đến Phạm Hồng Thái cũng như khiến anh thấu hiểu hơn về bản chất của thực dân, sự bần cùng của kiếp đời nô lệ và nâng cao ý thức giai cấp của mình.

Năm 1924, Phạm Hồng Thái từ biệt vợ con, quyết chí xuất dương theo đường dây liên lạc của Tâm tâm xã. Đi cùng Phạm Hồng Thái còn có Lê Huy Doãn (tức Lê Hồng Phong) và Lê Thiết Hùng, được dẫn đường bởi Vương Thúc Oánh (thành viên Việt Nam Quang phục hội). Họ đi sang Lào và Xiêm La (Thái Lan) rồi đến Quảng Châu (Trung Quốc)[5]. Thời gian ở Thái Lan, Phạm Hồng Thái và những người đồng hành có lưu lại Trại Cày của Đặng Thúc Hứa, nơi tập trung nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước xuất dương sang. Đầu mùa hè năm 1924, Phạm Hồng Thái cùng với Lê Hồng Phong và 6 thanh niên khác đặt chân đến Quảng Châu[6]. Sau khi tìm đến Việt Nam Quang Phục hội của Phan Bội Châu, Phạm Hồng Thái nhận ra đây không phải là tổ chức có thể giúp mình thực hiện được hoài bão, nên bí mật gia nhập tổ chức Tâm tâm xã[7].

Đến tiếng bom làm sống dậy chân lý đấu tranh của dân tộc!

Tháng 3/1924, Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Phong chính thức gia nhập Tâm tâm xã, và nhanh chóng thiết lập được mối liên hệ mật thiết với Lê Văn Phan (tức Lê Hồng Sơn) - thành viên của Tâm tâm xã từ khi tổ chức này mới thành lập. Tháng 4/1924, biết tin Toàn quyền Đông Dương Méc – lanh sẽ có chuyến thăm Nhật Bản sau vụ động đất và trên đường về có ghé Trung Quốc, Tâm tâm xã nhận định đây là cơ hội để thủ tiêu tên toàn quyền nhằm chấn động dư luận. Sau họp bàn và vạch kế hoạch triển khai, tổ chức đã giao cho Phạm Hồng Thái và Lê Hồng Sơn dưới sự trợ giúp của Lê Hồng Phong đảm nhiệm trọng trách này. Phạm Hồng Thái nhận trực tiếp ra tay và tuyên bố: “Sự việc thành công hay không, khó mà đoán trước được, nhưng tôi thề không chịu để rơi vào tay giặc Pháp”[8]. Nắm  được lịch trình của Méc- lanh, Phạm Hồng Thái cùng những người trong tổ chức quyết định hành động khi viên toàn quyền đến khách sạn Victoria dự buổi chiêu đãi nhằm hạn chế tối đa số người liên lụy. Trong bức di thư để lại, Phạm Hồng Thái đã viết: “Hồng Thái tôi, theo lệnh của Nghĩa liệt đoàn chỉ nhằm đánh vào một mình tên Méc – lanh này. Trong khi tạc đạn tung nổ, nếu có liên lụy tới người khác, đó là điều vạn bất đắc dĩ, mong các vị quân tử nguyên lượng mà hiểu cho. Hồng Thái tôi theo lệnh Đảng, vì bốn chục triệu đồng bào mà hy sinh, chết cũng không tiếc; chỉ mong toàn thế giới xét kỹ mà cứu lấy, khiến cho dân tộc Việt Nam chúng tôi được tồn tại trên mặt địa cầu này.”[9]

Và cuối cùng, ngày 19/06/1924, tiếng bom đã nổ. Dù cuối cùng Méc- lanh thoát chết song tiếng vang của vụ ám sát đã gây nên một làn sóng chấn động lúc bấy giờ.

Hành động của Phạm Hồng Thái biểu thị nhiều ý nghĩa song hơn hết có lẽ đó là giá trị của sự thức tỉnh người Việt Nam, nhất là thanh niên Việt vẫn đang chìm mình trong cuộc đời nô lệ,  cam chịu. Từ sau khi phong trào Việt Nam Quang Phục Hội do cụ Phan Bội Châu khởi xướng tan rã, các hoạt động  đấu tranh chống lại thực dân Pháp của ta bấy giờ gần như tắt lịm. Đất nước chìm trong những ngày tháng đau thương và không lối đi. Tiếng bom của Phạm Hồng Thái đã chấm dứt thời kỳ ấy, đã kéo 25 triệu người Việt  tỉnh dậy sau giấc ngủ dài 7 năm, vùng dậy đấu tranh. Thanh niên, trí thức yêu nước trong nước lẫn kiều bào nước ngoài được thắp lên ngọn lửa yêu nước và tìm thấy được con đường nên lựa chọn. Tiếng bom Phạm Hồng Thái đã gây chấn động địa cầu, suốt 3, 4 ngày liền các tờ báo quốc tế liên tục đưa tin về sự kiện này. Thế giới từ đây biết được bộ mặt của thực dân Pháp và biết được có một dân tộc Việt Nam sẵn sàng hy sinh để đòi lấy tự do.

Từ hành động này của Phạm Hồng Thái, Phan Bội Châu có dịp nhìn lại con đường của mình để nhận thấy sự lạc hậu trong đường lối và khẳng định con đường cách mạng phải có kết hợp giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, phải tiến hành cách mạng xã hội. Bởi lẽ đó mà Phạm Hồng Thái được ông tôn là bậc liệt thánh , là người đã “tay không xông vào hang cọp mà không sợ hãi gì đánh một cái, quét được oai của bọn cường quyền mà không nghĩ đến thân mình sau này.”[10]

Mặc dù ban đầu không đồng tình với đường lối hoạt động của Tâm tâm xã nhưng sau hành động của Phạm Hồng Thái, Nguyễn Ái Quốc đã có lời ngợi ca hết sức và đánh giá hành động này như cánh én nhỏ báo hiệu mùa xuân. Tháng 12 năm đó Người tới Quảng Châu và tập hợp lực lượng để đến năm 1925 lập ra Việt Nam cách mạng thanh niên hội. Tiếng bom ấy như một đột phá khẩu, mở đầu cho phong trào cách mạng mới sẽ diễn ra trên đất nước ta nhằm chống lại sự đàn áp của thực dân Pháp. Sau tiếng bom tại Sa Diện, các hoạt động yêu nước diễn ra sôi nổi và thu lại được nhiều kết quả. Các hoạt động đấu tranh sau đó đã tạo cơ sở thực tiễn cho năm 1929 ba tổ chức cộng sản ra đời và đến năm 1930 thì Đảng Cộng Sản Đông Dương ra đời. 6 năm sau tiếng bom ấy, ngay trên quê hương của Phạm Hồng Thái đã bùng lên cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh.

Như nhận định của tác giả Thanh Đạm trong bài viết “Yếu tố nghịch lý và chân lý trong tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái”, hành động nhỏ bé ấy đã thức tỉnh một chân lý là muốn thay đổi phải có đấu tranh. Ý nghĩa đó không chỉ có giá trị trong thời điểm bấy giờ mà vẫn vẹn nguyên cho tới tận hôm nay, sau hơn 90 năm nhìn lại. Dù trong bất kì thời đại nào, nếu muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, muốn thay đổi thực trạng xã hội phải thức tỉnh để đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác.

Phạm Hồng Thái và hành động của anh sẽ mãi ghi dấu trong lịch sử và trái tim người dân Việt Nam không chỉ như một vị anh hùng xả thân cho dân tộc mà còn như một lời nhắc nhở về chân lý đấu tranh, về giá trị của tự do và về cách sống ở đời.

“Sống làm quả bom nổ

Chết như dòng nước xanh”[11]

Nguồn: VHNA

 


[1]Trích thơ Trần Huy Liệu ca ngợi Phạm Hồng Thái trước hành động hy sinh đầy quả cảm của ông.

[2]  Có tài liệu ghi là Sa Điện

[3]  Các tài liệu có những ghi chép không giống nhau về ngày tháng năm sinh của Phạm Hồng Thái.. Quyển Sơ thảo tiểu sử Phạm Hồng Thái của Phạm Minh Nguyệt (con trai của Phạm Hồng Thái), Truyện Phạm Hồng Thái của Bạch Hào (Hà Nội, năm 1945), một số bài viết của học giả Trung Quốc như Viên Sỹ Luân, Trịnh Văn, Lục An Văn đều viết là Phạm Hồng Thái sinh năm 1893. Tác giả Chương Thâu (và Tôn Quang Phiệt) trong bài Phạm Hồng Thái (cuốn danh nhân Nghệ Tĩnh, tập 1) và bài Phạm Hồng Thái - Con người yêu dấu của đất Lam Hồng (Kỷ yếu tọa đàm khoa học về Phạm Hồng Thái, Vinh, tháng 7/1994), rồi trên bia liệt sỹ Phạm Hồng Thái hiện nay ở Quảng Châu (Trung Quốc) đều viết là Phạm Hồng Thái sinh ngày 14/5/1895.

[4]  Phan Bội Châu – Toàn tập, NXB Thuận Hóa và TTVHNN Đông Tây, HN, 2000.

[5]  GS. Chương Thâu trong Kỷ yếu tọa đàm khoa học về Phạm Hồng Thái, Vinh, tháng 7/1994, tr 21-22

[6]  Kỷ yếu tọa đàm khoa học về Phạm Hồng Thái, Vinh, tháng 7/1994, tr77.

[7]  Kỷ yếu tọa đàm khoa học về Phạm Hồng Thái, Vinh, tháng 7/1994, tr 11.

[8]  Theo Lê Khiêm, Phạm Hồng Thái mưu sát toàn quyền Đông Dương Méc – lanh tại Sa Điện (Trung Quốc).

[9]Theo Di thư để lại của liệt sĩ Việt Nam Phạm Hồng Thái, bản Đặng Thắng Châu sưu tầm, Thanh Đạm dịch (Tạp chí Xưa và nay số 4- 1994).

[10]  Phan Bội Châu, Truyện Phạm Hồng Thái,; bản GS. Chương Thâu dịch từ bản chữ Hán in trong Phạm Hồng Thái truyện, bản in lại 1959 của Học viện sư phạm Quảng Đông.

[11]Thơ Tố Hữu

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…

  • QUẾ HƯƠNG

    Năm tháng trước, về thăm Huế sau cơn đại hồng thủy, Huế ngập trong bùn và mùi xú uế. Lũ đã rút. Còn lại... dòng-sông-nước-mắt! Người ta tổng kết những thiệt hại hữu hình ước tính phải mươi năm sau bộ mặt kinh tế Thừa Thiên - Huế mới trở lại như ngày trước lũ. Còn nỗi đau vô hình... mãi mãi trĩu nặng trái tim Huế đa cảm.

  • THU TRANG

    Độ hai ba năm thôi, tôi không ghé về Huế, đầu năm 1999 này mới có dịp trở lại, thật tôi đã có cảm tưởng là có khá nhiều đổi mới.

  • TUỆ GIẢI NGUYỄN MẠNH QUÝ

    Có lẽ bởi một nỗi nhớ về Huế, nhớ về cội nguồn - nơi mình đã được sinh ra và được nuôi dưỡng trong những tháng năm dài khốn khó của đất nước, lại được nuôi dưỡng trong điều kiện thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt. Khi đã mưa thì mưa cho đến thúi trời thúi đất: “Nỗi niềm chi rứa Huế ơi/ Mà mưa xối xả trắng trời Trị Thiên…” (Tố Hữu). Và khi đã nắng thì nắng cho nẻ đầu, nẻ óc, nắng cho đến khi gió Lào nổi lên thổi cháy khô trời thì mới thôi.