“Có hai ông sui gia nhậu với nhau, trên bàn có một dĩa lòng vịt xào với hành nho nhỏ. Ông sui gia tính ham ăn, liền thò đũa lòn nguyên dĩa gắp lên rồi giũ giũ vờ như muốn cho nó rớt xuống. Nhìn thấy vậy, ông sui kia nóng ruột nói: Anh lấy giò đạp xuống thử coi nó xuống không?”.
Phần trích trên là nguyên văn Chuyện sui gia nằm trong tiểu mục Truyện cười của Truyện kể dân gian (gồm 76 trang) do TS Phan Xuân Viện biên soạn. Đây là một trong hàng trăm câu chuyện mà thầy trò khoa Văn học, Trường Đại học KHXH-NV TPHCM sưu tầm, thu nhận, sàng lọc và tuyển chọn lại trong 2 đợt thực tập thực tế tại Tiền Giang (năm 2011 và 2012).
Trong 2 đợt điền dã ấy, với sự hướng dẫn trực tiếp của 11 thầy - cô, gần 300 sinh viên của khoa đã có 1.851 cuộc tiếp xúc với cộng tác viên (nhân dân địa phương), sau thời gian dài làm công việc lọc bỏ, tinh chọn, phân loại và chỉnh lý, nhóm biên soạn gồm TS La Mai Thi Gia, TS Phan Xuân Viện và Th.S Lê Thị Thanh Vy đã giữ lại và đưa vào tập sách được 1.021 câu đố, 903 câu tục ngữ, 108 truyện kể, 1.251 câu ca dao và 49 bài vè.
Như một điều tất yếu, sự lưu truyền của dòng văn học truyền miệng có sức lan tỏa rộng, nên những gì mà tập thể tác giả và các cộng sự thu nhận được trong 2 tập sách trên, có thể nói, ngoài những gì thật sự xuất phát từ đất Tiền Giang (do cư dân ở đây sáng tác) còn có một phần, theo tôi là “di sản” của cả dân tộc được lưu truyền theo đoàn người di cư từ Bắc và Trung vào Nam trong các thời kỳ lịch sử.
Trong phần câu đố, rất thú vị khi phần lớn đều được dân gian sáng tác dưới hình thức lục bát, tứ tuyệt hoặc các hình thức văn vần đa dạng khác. Như tục ngữ là một phần không thể thiếu trong kho tàng văn học dân gian, từ chính cuộc sống đã đúc kết nên những câu nói hoặc trực tiếp, hoặc ẩn dụ; có lúc đơn giản, có khi mang tính triết lý cao tạo nên những bài học về luân lý ở mọi tầng bậc cuộc sống.
Hay ca dao dân ca có nhiều nét khu biệt vùng miền, với khá nhiều nội dung thể hiện rõ tính địa phương. Thể loại vè, phần nào nêu được đặc trưng của vùng sông nước miền Tây qua thế giới thiên nhiên, động thực vật và những sinh hoạt thường ngày của người dân Nam bộ. Thú vị nhất là những bài vè liệt kê tên gọi và đặc điểm của các loài chim, loài hoa, loại bánh trái hay các loại tôm cá vùng sông nước, như: “Tròn như mặt trăng/ Đó là bánh xèo/ Có cưới có cheo/ Đó là bánh hỏi/ Đi không đặng giỏi/ Ấy là bánh bò…”.
Văn học dân gian Tiền Giang là một tập sách quý, cần lưu giữ để tham khảo, không chỉ cho những nhà chuyên môn nghiên cứu về văn học mà còn là một tài liệu bổ ích cho các ngành liên quan (dân tộc học, lịch sử, địa lý, văn hóa…), đồng thời cũng cần ghi nhận, đây là một nguồn tài liệu, là nơi lưu giữ tinh hoa của tiền nhân qua bao thế hệ.
Theo Bùi Nguyễn Trường Kiên - SGGP
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.