Sau 1986, nền văn học bước vào thời kì đổi mới, hoà nhịp với công cuộc đổi mới mạnh mẽ và toàn diện trên đất nước ta. Lê Minh Khuê là nhà văn đã trưởng thành từ văn học chống Mĩ. Trước yêu cầu mới, chị đã có nhiều cố gắng, thể hiện những nỗ lực sáng tạo của một cây bút nữ. Trong đó, phải kể đến những đổi mới về bút pháp truyện ngắn.
Nhà văn Lê Minh Khuê (đứng giữa) nhận giải Thành tựu văn học trọn đời.
Tổ chức cốt truyện đa dạng
Từ những năm 80 trở đi, xu hướng phản ánh cuộc sống đa chiều, chuyển đổi cốt truyện một mạch thẳng sang cốt truyện nhiều mạch, nhiều ngã rẽ đã xuất hiện trong truyện ngắn của Lê Minh Khuê. Để thực hiện chức năng mới, cốt truyện biến hoá linh hoạt, mở rộng thành cốt truyện đa tuyến, đan xen dồn nén các chi tiết, sự kiện. Con đường phát triển của cốt truyện từ phương thức kể và tả là chủ yếu, đến bớt dần nguyên tắc kể và tả, tăng thêm phần phân tích, triết luận.
Đồng đô la vĩ đại không còn tuân theo mô hình quen thuộc của cốt truyện truyền thống. Mở đầu truyện đã đi thẳng vào phút cao trào là trận đánh nhau kinh thiên động địa của anh em con nhà lão Trương. Từ đây mở ra hàng loạt câu chuyện trong quá khứ, tạo thành những mạch đan xen. Mỗi nhân vật là một mạch chuyện về thăng trầm của một gia đình, có thể tồn tại độc lập như một câu chuyện, trở thành những mạch phụ hướng tới lí giải chủ đề.
Nếu cốt truyện sự kiện của Lê Minh Khuê dành được nhiều sự chú ý của dư luận thì cốt truyện tâm lí mới thực sự thể hiện phần lắng sâu trong tâm hồn của chị. Càng về sau Lê Minh Khuê càng thể hiện sở trường xây dựng cốt truyện tâm lí. Những truyện ngắn không có cốt truyện của Lê Minh Khuê giản dị và lặng lẽ, viết về những điều tốt lành nho nhỏ trong cuộc sống nhưng chất chứa những giá trị lớn lao và những tâm sự nhân sinh đau đáu. Một buổi chiều thật muộn, Mong manh như là tia nắng, Lưng chừng trời, Một mình qua đường…là những truyện thuộc loại này.
Một mình qua đường không hấp dẫn người đọc bởi chuỗi sự kiện, hành động mà vì đau đáu nỗi niềm nhân sinh thế sự. Các nhân vật được giới thiệu từ đầu, không có biến cố thay đổi lớn về tính cách hay số phận nhân vật. Truyện chỉ bắt lấy một khoảnh khắc của cuộc đời rồi tái hiện. Đọc truyện ngắn của Lê Minh Khuê, người đọc tìm thấy tâm thế xã hội qua những giai đoạn lịch sử khác nhau.
Như vậy, cốt truyện của Lê Minh Khuê ở chặng đường này biến hoá linh hoạt, khi mở rộng thành cốt truyện sự kiện, khi xuất phát từ nội tâm của nhân vật tạo thành cốt truyện tâm lý. Sự linh hoạt trong xây dựng cốt truyện bộc lộ rõ ưu thế của nó trong phản ánh, lí giải hiện thực đời sống và thế giới tâm hồn của con người.
Thử nghiệm kết cấu đa tuyến linh hoạt
Từ tập Một chiều xa thành phố, đặc biệt từ Bi kịch nhỏ phần lớn các tác phẩm được kết cấu theo kiểu đa tuyến. Đây là kiểu kết cấu phức tạp hoá, là cách thức tổ chức chi tiết, sự kiện trong thế phát triển của hiện thực chưa hoàn thành. Nhà văn tổ chức sắp xếp các tình tiết, sự kiện diễn biến không theo trình tự thời gian, cũng không nhất thiết theo logic điều kiện - kết quả, nguyên nhân - kết quả như kết cấu đơn tuyến.
Truyện ngắn Bi kịch nhỏ rất tiêu biểu cho lối kết cấu đa tuyến. Trong truyện không chỉ có một tuyến thời gian của nhân vật chính theo kiểu kết cấu truyền thống. Truyện mang kết cấu lắp ghép, vừa kể về vụ án con giết cha rùng rợn vừa nối kết với câu chuyện về gia đình ông Tuyên. Kết cấu phức tạp không chỉ xoay quanh nhân vật ông Tuyên mà còn là câu chuyện về Quang, người con bị bố bỏ rơi ngay từ khi chưa ra đời, kể về Cay – con gái ông Tuyên - lớn lên trong nhung lụa, hưởng thụ nhưng đã có tiên cảm không lành về số phận, kể về cuộc đời Thảo – cháu ông Tuyên - cũng là một bi kịch.
Kết cấu của Bi kịch nhỏ thể hiện thành công dụng ý nghệ thuật của tác giả, gửi gắm thông điệp nhân sinh sâu sắc. Bức tranh đồng hiện “Con giết cha, cha giết con” đã phản ánh thảm kịch cuộc sống và quy luật bất biến: Vận mệnh và tương lai của thế hệ sau có liên quan, phụ thuộc lớn lao vào suy nghĩ và hành động của lớp người đi trước. Các tình tiết, sự kiện diễn biến của các tuyến nhân vật đều không tuân theo trình tự thời gian mà luôn là những mảnh ghép của hiện thực còn dang dở truyền tải nhiều ý tưởng của nhà văn.
Với kết cấu đa tuyến, nhiều truyện ngắn của Lê Minh Khuê đã kết thúc nhưng vẫn còn khoảng trống, kết thúc mà chưa đưa ra kết luận sau cùng cho người đọc tự suy ngẫm, liên tưởng về nhiều vấn đề cuộc sống. Hoặc không kết thúc mà để ngỏ một cốt truyện khác, gợi mở những cách tiếp cận, đánh giá. Lê Minh Khuê cũng như các nhà văn hiện đại tái hiện những khoảnh khắc không đầu không cuối vì họ nhận thấy một sự thật là cuộc đời không có điểm kết thúc mà chỉ có những điểm tạm dừng ở một thời khắc nào đó. Kết thúc mở của văn chương thời đổi mới đánh thức ở người đọc tiềm năng suy ngẫm về cuộc đời và số phận con người ở nhiều hình vẻ và tầng bậc khác nhau.
Sử dụng phương thức trần thuật từ nhiều điểm nhìn
Ở chặng đường này, Lê Minh Khuê đã có bước đổi mới quan trọng trong phương thức trần thuật. Những truyện ngắn kể từ vị thế nhân vật “tôi” hầu hết kể chuyện người khác nên vừa dễ dàng thâm nhập vào câu chuyện vừa có thể quan sát nhân vật từ điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài. Khi tham gia dẫn dắt câu chuyện, nhân vật “tôi” không phải là người biết hết. Người kể chuyện luôn trăn trở, hoài nghi, thậm chí chợt bừng tỉnh nhận ra một điều gì đó đằng sau câu chuyện mà mình theo dõi.
Đó là những truyện Cơn mưa cuối mùa, Bi kịch nhỏ, Trong làn gió heo may, Dạo đó thời chiến tranh, Anh rất yêu em, Đồng tiền có màu xanh huyền ảo… Ở truyện ngắn Cơn mưa cuối mùa, nhân vật “tôi” - Đức kể lại chuyện tình yêu của Mi, cô bạn đồng nghiệp thân thiết của mình. Qua nhân vật người kể chuyện, nhà văn tái hiện sinh động quá trình diễn biến tâm lí nhân vật, thâm nhập vào đời sống tâm hồn của nhân vật từ nhiều điểm nhìn khác nhau.
Trong một số truyện ngắn ở giai đoạn sau, Lê Minh Khuê đã trần thuật từ ngôi thứ ba. Ở đây, người trần thuật hoàn toàn tách mình khỏi diễn biến truyện, hướng người đọc quan tâm đến những sự kiện cùng các kết quả của chúng mà không phải tỏ thái độ, dựng lên các mảng hiện thực cuộc sống khá phong phú, sinh động bằng cái nhìn khách quan và dân chủ. Đó là cảnh sống mỏi mòn của người cha với kỉ niệm, trong căn nhà thừa vật chất thiếu tình thương (Ga xép).
Đó là câu chuyện hôn nhân của anh chàng đẹp trai, có học với cô vợ giàu có, xấu ma chê quỷ hờn để có tiền cứu mẹ. Nhưng rồi càng ngày, anh càng nhận ra vẻ đẹp trong tâm hồn cô (Câu chuyện tác thành). Cảnh làm ăn tưng bừng của một quán bia nhờ tận dụng được nguồn nước cống rửa đồ ăn (Làn nước dịu dàng). Cảnh sống tù túng, thụ động trong bao, tiệm cận với cái chết cuả một kiểu người trong xã hội (Trong ghế bành)…
Những cảm nhận ấy hoàn toàn phụ thuộc vào người tiếp nhận vì Lê Minh Khuê không còn là người dẫn đường chỉ lối cho người đọc đến với quan niệm đơn nhất, cũng không giữ quyền điều khiển nhân vật mà rất ngang bằng, thậm chí thấp hơn nhân vật. Trần thuật khách quan từ nhiều điểm nhìn cũng là cách để nhà văn tạo khoảng cách thích hợp để có thể nhìn rõ tất cả, tăng cường đối thoại với người đọc, tạo cho họ một tâm lí thoải mái của người có vị trí bình đẳng trong đánh giá sự việc.
![]() |
Một số tác phẩm của nhà văn Lê Minh Khuê |
Cuộc sống diễn tiến thật tự nhiên, có quy luật nhưng luôn hàm chứa những bất ngờ, ngẫu nhiên và thậm chí có khi bí ẩn. Sự tinh tế nhạy cảm của nhà văn là rất quan trọng mà Lê Minh Khuê là người giàu có linh cảm. Truyện ngắn của chị luôn bộc lộ khả năng cảm nhận đời sống trong những ấn tượng rất mơ hồ nhưng lại có căn cứ.
Lê Minh Khuê chưa đào sâu vào phương diện đời sống tâm linh, nhưng cũng đã bắt đầu tìm vào phần mơ hồ, vô thức với những dòng chảy miên man, vô định trong tâm lí của con người. Trạng thái vô thức qua những giấc mơ của mỗi cá nhân thể hiện sự bất lực trong nhận thức của con người. Nhân vật lão Thiến không hiểu được tại sao mình sống trong nỗi ám ảnh về bộ xương của anh lính Mĩ (Anh lính Tony D). Những giấc mơ là sự tồn tại của vô thức trong con người, là những ẩn số không tìm được lời giải đáp về cuộc đời. Và những giấc mơ ấy đã trở thành động cơ thức tỉnh cá nhân thoát khỏi những đam mê, dục vọng tầm thường.
Con người là sự hợp thể giữa phần vô thức và ý thức. Ý thức giúp con người nhận biết, lí giải thế giới xung quanh. Nhưng phần vô thức, tâm linh lại đem tới những năng lực mà ý thức nhiều khi không chạm tới được. Đó là khả năng nhận biết bằng thế giới tinh thần vô cùng bí hiểm, bằng sức mạnh của niềm tin hoàn toàn mang màu sắc duy cảm. Ông Lăng (Ga xép) trong những năm tháng cuối đời chủ yếu sống bằng dòng kí ức, bằng những ám ảnh mơ hồ về số phận con người, bằng sự giao cảm với một thế giới khác.
Để diễn đạt trạng thái thông linh trực cảm của con người, Lê Minh Khuê đã sử dụng một lớp từ phù hợp với trạng thái ấy. Chỉ mấy trang cuối của Biển mịt mờ, người đọc cũng bắt gặp ấn tượng trực cảm qua hàng loạt cụm từ. Chị dường như luôn ngạc nhiên trước mọi bất ngờ của đời sống, như cảm được mọi chuyện bằng trực giác và cố gắng truyền những xúc cảm tươi nguyên ấy sang người đọc.
Ngay từ tập truyện đầu tay của Lê Minh Khuê, người đọc đã thấy ở cây bút này lối cảm đời sống theo con đường của trực giác. Trong Ngày đi trên đường, những câu văn chất đầy cảm giác. Đọc truyện ngắn của chị cũng khó có thể giải thích cặn kẽ mọi điều bằng lí trí. Theo hướng này, Lê Minh Khuê cảm nhận đời sống không phải do sự sai khiến của lí tính mà theo mệnh lệnh của trái tim. Vì thế hiệu quả gây ấn tượng của truyện ngắn gia tăng rõ rệt.
Đào sâu vào thế giới tâm linh con người, các nhà văn hiện đại đang tiếp nối những người đi trước. Đến đây, thế giới nội tâm sâu sắc với lối cảm đời sống theo con đường của trực giác được khám phá ở những chiều kích khác nhau. Ở mảng này, phải ghi nhận sự tinh tế của những cây bút nữ. Đặc điểm nổi bật của phụ nữ là sự nhạy cảm, trực giác chính là phẩm tính của các nhà văn nữ.
Như vậy, Lê Minh Khuê nói riêng, các nhà văn trong văn học hiện đại nói chung đã đi sâu vào đời sống tinh thần với sức mạnh tự nhiên mãnh liệt của con người để chỉ ra những bi kịch tâm hồn đầy ẩn ức, từ đó người đọc thấu hiểu tâm hồn của con người. Và truyện ngắn chính là thể loại thuận lợi để biểu đạt một cách tự nhiên, cụ thể những nỗi niềm, những tâm tư thầm kín đầy bí ẩn ấy. Hiện tại, Lê Minh Khuê vẫn đang tiếp tục đi trên lộ trình truyện ngắn của mình. Người đọc hoàn toàn có thể chờ đợi và tin tưởng vào một ngòi bút nhân hậu và đa cảm với những trang viết thấm đẫm tình người của chị.
Theo Nguyễn Thị Mai Loan - GD&TĐ
(Đọc Áp tai vào đất, Lê Quang Trạng, Nxb Hội Nhà văn, 2017)
Nhà văn Nguyễn Thành Nhân (ảnh) được biết đến với tiểu thuyết Mùa xa nhà viết về những tháng năm anh làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Đây là tác phẩm đầu tay tạo được tiếng vang giúp anh tiến sâu hơn với nghề viết.
Chiều ngày 12/4, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam diễn ra tọa đàm giới thiệu hai cuốn tiểu thuyết “Phố Academy” ( tác giả Mary Costello, Hà Nguyễn dịch) và “Tuần lễ náu mình” (tác giả Maeve Binchy, Nguyễn Nhật Tuấn dịch) do Nhà xuất bản Phụ nữ cùng sự tài trợ của Đại sứ quán Ireland.
Tập sách 'Mỗi người một chỗ ngồi' mang phong vị văn chương "lạnh, sắc và tinh tế" của cây bút truyện ngắn tiêu biểu một thời.
Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Vũ Hùng là tác giả của 40 đầu sách, trong đó có 2 tác phẩm được giải thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam: truyện đồng thoại Sao Sao (1982) truyện ký Sống giữa bầy voi (1986).
Sau một gian nghiên cứu tìm tòi thể nghiệm, nhà văn Nguyên Hương vừa “trình làng” bộ ba “Tớ muốn đi cùng trời cuối đất” dành cho lứa tuổi học trò với cách viết mới mẻ, sử dụng yếu tố kì ảo khiến tác phẩm thêm phần cuốn hút.
“Bãi vàng và những chuyện tình nho nhỏ” bao gồm 15 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng viết về tình yêu và thân phận người phụ nữ trong những cuộc tình trái ngang. Dưới ngòi bút của ông, tình yêu được miêu tả là “thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người,” (trích truyện ngắn “Bãi vàng”).
Truyện Linda Lê phản ánh thời biến động khó quên của một xứ sở, song hành hồi ức của một người đàn bà tâm thần, sống cô độc ở Paris.
Sáng nay (27/2), chuỗi sự kiện Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVI chính thức khởi động với hội thảo về thơ với chủ đề “Những vấn đề của thơ Việt Nam hiện nay” tại Hà Nội.
Ba cuốn sách của cố nhà văn Tô Hoài (“Giữ gìn 36 phố phường,” “Những ký ức không chịu ngủ yên” và “Người con gái xóm Cung”) chính thức ra mắt độc giả vào trong dịp đầu năm 2018.
“Giải thưởng sự nghiệp văn học” - một giải thưởng mới của Hội Nhà văn Việt Nam đã được trao cho nhà văn Vũ Hùng – cây viết đã bền bỉ dành cả cuộc đời mình để viết về trẻ em, muông thú, thiên nhiên.
Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Đầu năm 2018, nhiều tựa sách văn học nước ngoài thú vị được các nhà xuất bản trong nước giới thiệu tới độc giả Việt Nam.
Sáng 25/1, Hội Nhà văn Việt Nam đã chính thức công bố danh sách Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017.
Với 66 bài viết được chia làm 3 phần, cuốn sách “Như mây thong dong” của tác giả Lưu Đình Long do NXB Văn hóa - Văn nghệ và công ty Saigonbooks ấn hành là một trong những thông điệp đẹp và tình yêu và người trẻ hiện nay.
Tối 5/1, tọa đàm “Văn chương nói với ta điều gì về kẻ khác” được Bảo tàng thấu cảm và Khóa học mùa thu và phát triển (ASOD) đồng tổ chức nhằm hướng tới cái nhìn đa chiều và khoa học xung quanh vấn đề thấu cảm nói chung và vấn đề thấu cảm trong văn chương nói riêng.
Không hẹn mà gặp, gần như cùng một lúc NXB Kim Đồng cho ra mắt hai tập chân dung văn học “Đi tìm giấc mơ” của tác giả Trần Hoàng Thiên Kim và “Như cánh chim trong mắt của chân trời” của Văn Thành Lê.
Được viết từ trước năm 1975, bộ 3 tác phẩm truyện dài gồm “Áo tím qua đường”, “Mối tình như sương khói” và “Còn những bóng mưa tan” của nhà văn Từ Kế Tường về tình yêu tuổi mới lớn từng được đông đảo các thế hệ độc giả đón nhận.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).