NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
Anh đã rời cõi tạm lúc 5 giờ sáng ngày 30/8/2016. Sáng đó, tôi nghe anh Linh, Giám đốc Công ty In và Quảng cáo Tân Phát, một người hay in sách Nhất Lâm, điện cho tôi tin đau đớn đó. Tôi bị hững hụt bàng hoàng. Mới chiều hôm trước, tôi điện mời anh trưa mai lên nhà giỗ Mạ tôi, vì cuộc giỗ này mười mấy năm nay đều có anh. Anh bảo: “Mình đau lắm. Có lẽ không đi được đâu. Thông cảm nha”. Anh đau tim từ năm 2010, lúc nào anh cũng áp tay phải lên ngực vì bệnh tim hành hạ. Năm 2010, Bệnh viện Trung ương Huế đã lên lịch mổ tim cho anh. Thấy Gạc khuyên: “Mổ tim nguy lắm. Anh mổ là chết. Chịu khó uống thuốc thì có thể sống thêm vài ba năm!” Thế là anh không mổ, tìm mua thuốc uống. Thế mà sống thêm được 6 năm! Vợ anh bảo: “Chiều anh vẫn viết. 4 giờ sáng dậy kêu đau, bảo đưa đi viện”. Taxi đưa lên viện thì tay chân anh đã lạnh rồi. 5 giờ sáng, trái tim tổn thương ấy đã ngừng đập!
Vì nhà văn Nhất Lâm đã hiến xác cho Bệnh viện, nên Linh hỏi tôi: “Anh Lâm hiến xác rồi. Anh Ngô Minh hỏi coi mình có thể vào bệnh viện thắp nhang viếng được không?” Tôi điện hỏi nhà văn - bác sĩ Phạm Nguyên Tường ở Khoa Ung Bướu. Tường “ôi” lên một tiếng rồi bảo tôi: “Tin anh Nhất Lâm mất em mới nghe lần đầu. Sửng sốt quá! Em sẽ hỏi thủ tục, sẽ gọi lại anh sau”. Sau đó thì bác sĩ Tường cho biết gia đình đã bàn với bệnh viện không đồng ý hiến xác nữa. Hai bên cũng đã thỏa thuận làm tang lễ bình thường…”.
Nhất Lâm là một nhà văn trung thực, thẳng thắn, sống quyết liệt, viết quyết liệt. Từ khi nghỉ hưu đến khi rời cõi tạm, trong 25 năm anh đã viết và ấn hành 20 cuốn sách (11 cuốn văn xuôi, 6 tập thơ, trong đó có tiểu thuyết Xa Hà Nội được giải thưởng của Quỹ Phùng Quán năm 2012 và 2 tiểu thuyết khác được giải thưởng của Hội VHNT Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế) và hàng ngàn bài báo. Cuốn cuối cùng của anh là tự truyện SỐNG ĐỂ CHẾT dày 300 trang (Nxb. Thuận Hóa, 2016) là những trang kể lại cuộc đời mình rất sống động. Đọc sách, mới hay anh không phải Sống để chết mà là Sống để tận hiến! Những ngày cuối đời, trong túi áo anh luôn có 3 cái thẻ: thẻ hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, thẻ hiến xác và cái chứng minh thư kỳ lạ. Cái chứng minh nhân dân (CMND) của Nhất Lâm 90 triệu người Việt Nam không ai có: sinh ngày 32/13/1936; nghĩa là ngày không có, tháng không có trong lịch thời gian. Nhưng cái CMND là có thật, anh vẫn sử dụng. Về cái CMND lạ lùng, anh viết: “Thực sự ngày sinh của tôi là 04/12/1936 chứ không phải 32/13/1936. Nguyên do là vào hồi năm 1979 khi tôi còn hoạt động tại vùng biên giới phía Bắc, lúc đó, để đảm bảo bí mật quốc gia, chúng tôi được cấp một CMND riêng. CMND này có tác dụng là nếu chúng tôi bị bắt hoặc bị phát hiện thì (giấy tờ tùy thân) cũng không có hiệu lực pháp lý vì cái sự sai sót cố ý đó. Cái sai đó trở nên hợp lý là vì vậy.
Tự truyện Sống để chết, anh kể về gia đình, làng xóm và tuổi thơ của mình ở làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị cho đến khi ra Bắc, đi làm cán bộ địa chất, rồi giải phóng miền Nam trở về gặp mạ. Gia đình anh làm nông, nhưng khá giả, có thể nói là giàu có. Thời chống Pháp đã đóng góp rất nhiều vàng, lúa gạo để nuôi kháng chiến. Một gia đình có truyền thống học hành và yêu nước. Hầu như toàn bộ ông bà, chú bác, cha mẹ, cô dì… đều tham gia kháng chiến. Cả nhà có 3 liệt sĩ và hàng chục người đi cách mạng. Ông nội từng là chánh tổng, tri huyện bị bãi chức vì yêu nước. Bác ruột là Đoàn Lân, là một trong 7 người cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Ông bị Pháp bắt năm 1929, bị đi đày ở nhà tù Lao Bảo và chết ở đây. Vợ bác Đoàn Lân là bà Lê Thị Trúc, trong tổ chức làm kinh tế cho Đảng với bà Hoàng Thị Ái (Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam đầu tiên). Bố nhà văn Nhất Lâm là ông Đoàn Cầu, một nông dân làm ăn giỏi, đóng góp nhiều tiền bạc và sức lực cho cách mạng. Ông là Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Phong La. Sau đó lên chiến khu Ba Lòng, và hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1952. Mẹ anh tên là Nguyễn Thị Tâm cũng là một phụ nữ có nhiều cống hiến. Bà làm lụng chăm chỉ, cần lao để nuôi chồng con đi kháng chiến, góp tiền, góp lương thực cho cách mạng. Điều may mắn nhất là mẹ sinh ra 5 người con, 3 trai 2 gái, Đoàn Việt Lâm là đầu. Qua hai cuộc kháng chiến cho đến sau năm 1975, 5 người con của mẹ đều từ miền Bắc trở về gặp mẹ trong nỗi vui mừng khôn xiết. Mẹ sống cho đến năm 2002, 90 tuổi.
Đoàn Việt Lâm lúc 15 tuổi, học xong tiểu học Pháp (Primaire) là lên chiến khu Ba Lòng theo bộ đội. Đọc sách, tôi thấy anh có trí nhớ tuyệt vời. Tên đất, tên sông, tên suối, thậm chí tên người, tên những bản làng xa vắng tận Tây Bắc… anh đều nhớ hết. Rồi chuyện đi mót sắn, chuyện ăn đói, mặc rách, chuyện cọp vồ người, chuyện suýt bị lính Pháp bắn chết... Đã 67 năm rồi mà Nhất Lâm thuộc từng ngóc ngách chiến khu Ba Lòng. Ở chiến khu Ba Lòng thuở ấy, Nhất Lâm đã được nghe nghệ sĩ Tân Nhân hát, gặp nhạc sĩ Phạm Duy và những nhà văn nhà thơ trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn như Vĩnh Mai, Lương An, Hồng Chương, Dương Tường… Có lẽ những gặp gỡ đó đã nhen lên và nuôi trong anh ngọn lửa văn chương thơ phú.
Năm 1954, anh tập kết ra Bắc, học ở Trường Cấp 3 Phan Đình Phùng (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Sau đó Nhất Lâm ra Hà Nội học ngành địa chất. Ra trường, anh thành cán bộ địa chất đi tìm tài nguyên cho đất nước khắp vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng Ninh, Yên Tử... Đi tìm quặng phải leo đèo lội suốt rất cực nhọc và nguy hiểm, nhưng cũng có những giờ phút vô cùng lãng mạn. Đó là một tình yêu chớp nhoáng với cô gái Thái trắng Bản Lu, Yên Châu tên là Ín. Nàng đẹp. “Cái đẹp của người phụ nữ gọn gàng trong cái áo khít khao để bộ ngực tròn vo sức sống”, “Tôi nhìn nàng. Đôi má hồng lên như chị gà mái đang yêu… Rồi nàng cầm tay tôi tự nhiên kéo xuống cái nệm dày…”. Cuốn tự truyện Sống để chết kết thúc ở chuyến hồi quê ở Am Tiêm của 3 anh em trai từ Hà Nội về sau năm 1975. “Tôi chỉ kêu lên: Mẹ ơi. Mẹ cười nước mắt dàn dụa”. Rồi nhập tỉnh Bình Trị Thiên. Anh chuyển công tác sang giao thông. Làm Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải Bình Trị Thiên (cũ). Do hoàn cảnh riêng, anh đã xin nghỉ hưu sớm, và bắt đầu viết văn, làm thơ từ đó.
Ở Huế, Quảng Trị, Đồng Hới… nhà văn Nhất Lâm đi đâu ai cũng nhận ra bởi anh thường đi xe đạp, đầu trần với mái tóc bạc trắng chấm vai rất đẹp. Mái tóc bạch kim óng ánh để trần trong nắng mưa của anh cứ bồng bềnh trong gió như một “thương hiệu”. Tiểu thuyết Đồi không tên viết về cuộc chiến đấu của các chiến sĩ bộ đội, du kích vùng cao A Lưới với Mỹ trên Đồi thịt băm - theo cách gọi của lính Mỹ. Anh cho biết để có tiền in sách anh phải vay mượn bạn bè hơn chục triệu đồng. Không biết có thu lại đủ vốn không. Nhưng nhìn cuốn sách dậy mùi mực thơm tôi nghĩ đến mùi sự sống nồng nàn đang phục sinh trên mảnh đất A Lưới khốc liệt một thời. Chỉ riêng viết sách dựng lại cuộc chiến đấu sau 30 năm trời, chứng tỏ tình yêu và trách nhiệm của một người cầm bút thật mãnh liệt.
Nhất Lâm viết báo, làm thơ, viết truyện ngắn, truyện ký sôi sục, tâm huyết. Dường như mấy chục năm làm cán bộ địa chất, làm thanh tra ngành giao thông mẫn cán, nghĩa là làm công việc của một người công chức, anh vẫn chưa coi là làm. Về hưu, anh hì hục viết báo để nuôi mẹ già ở quê và nuôi văn, nuôi thơ và nuôi hồn mình. Anh viết ngày viết đêm như chạy thi với tuổi. Anh trầm ngâm: “Còn sống là còn viết, Ngô Minh ạ! Mình đã bỏ phí nhiều thời gian trai trẻ, tiếc lắm”. Chao ôi, đã hưu trí, đã “thất thập cổ lai hy” rồi vẫn lao vào cầm bút quyết liệt như anh Nhất Lâm, đáng kính nể biết bao nhiêu. Anh nghèo, không có tiền mua xe máy, đạp cái xe đạp cà tàng, không máy vi tính, không email, không Facebook, chỉ viết bằng tay. Anh đạp xe đi khắp chốn như một tay giang hồ bí ẩn. Đi nuôi mẹ già 90 ốm nặng ở Quảng Trị hơn 50 cây số cũng đạp xe. Có lần giữa đường xe đạp bị hỏng xích, không có tiền trả, anh gãi đầu, vuốt vuốt mái tóc bạc, rồi nghĩ ra cách ký tặng người thợ sửa xe tập thơ mới xuất bản. Nhờ có thơ mà người thợ sửa xe vui vẻ cảm ơn và không lấy tiền.
Nghèo, nhưng in sách thì anh không hề tiếc tiền, dù có phải vay mượn. Anh vay bà Phương Chi, vợ nhà thơ Vĩnh Mai ở Hà Nội để trả tiền in tập truyện ngắn Kinh thành bỏ ngỏ, vay bạn bè in tiểu thuyết Đồi không tên... In sách rồi tự đi phát hành. Thu được đủ vốn rồi thì lấy vốn đó in tập sách khác, còn lại bao nhiêu sách tặng bạn bè cho bằng hết. Gặp ai anh cũng tặng sách. Vô Bệnh viện Trung ương Huế thăm người bạn ốm, gặp cô y tá nhiệt tình thế là anh rút sách ra ký tặng. Đi chơi với tôi ở Hồ Than Thở, Đà Lạt, thấy hai cô gái bán cà phê ríu rít, anh rút thơ trong túi ra ký tặng như là thân quen từ lâu lắm…
Nhất Lâm không chỉ viết và in sách của mình mà anh còn sống chết vì bạn hết mực. Hồi nhà thơ Phương Xich Lô mất, Nhất Lâm đã rút hết số tiền trong sổ tiết kiệm 9 triệu đồng dành dụm cho ‘việc hậu sự’ của mình để in tập Nguyễn Văn Phương - Xích lô hành. Một tập sách làm kỷ niệm năm năm ngày mất của nhà thơ trẻ tài hoa mệnh yểu. Anh bảo: “Sách in 600 bản, bán thu đủ vốn rồi, số tiền còn lại sẽ đưa cho gia đình Phương để lo giỗ chạp hàng năm cho nó”. Anh mang Xích lô hành đi phát hành và tặng bạn bè tận Sài Gòn. Một nghĩa cử cao đẹp mà không phải người có tiền nào cũng làm được. Nhà thơ Hải Bằng mất (1998), Nhất Lâm đến nhà ngủ cạnh quan tài nhà thơ để cho ‘anh ấy ấm lòng’. Anh bỏ ra hàng tháng trời ra Hà Nội đọc và chỉnh sửa giúp bà Phương Chi hồi ký về nhà thơ Vĩnh Mai, một nhà thơ cộng sản cương trực người Quảng Trị mà anh rất kính trọng và nể phục. Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương ở Huế mất, Nhất Lâm đi vận động bạn bè quyên góp để làm đám tang vì Tâm Phương nhà nghèo. Ông Lê Văn Hoan, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Trị có lối sống và quan điểm rất gần dân, rất tân tiến; anh bỏ ra cả tháng trời để chấp bút tập hồi ký 350 trang của ông. Năm 2016, anh cùng bạn bè tổ chức bản thảo, quyên góp tiền để in tập Thơ Tôn Phong, nhân giỗ đầu nhà thơ người Huế ở Nha Trang. In xong rồi anh mang sách đi bán. Được mấy triệu đồng anh tìm cách chuyển tiền cho chị Lệ Mỹ vợ nhà thơ Tôn Phong. Chị Lệ Mỹ điện ra khóc, nói: “Cảm ơn Nhất Lâm và anh em Huế. Tôi không có lương hưu. Nhờ số tiền nhuận bút này mà tôi tổ chức được giỗ đầu cho anh Phong!”
Nhất Lâm là một thi sĩ thực thụ. Thơ anh mộc mạc, nhưng cái chất lãng tử, cái chất thi sĩ ngang tàng thì thật đậm: Ly dày ly cạn đêm nhòa nhạt/ Áo mới em choàng nhuốm bâng khuâng... (Suối đêm); Giang hồ tôi uống bao quán vắng/ Nước mắt nhòe mưa về bến sông (Mưa). Thơ Nhất Lâm là thứ thơ chiêm cảm, thơ chắt từ chính cuộc đời mình, nên nặng lòng trắc ẩn. Không ngất ngưởng, ngang tàng, không yêu thương cuộc đời hết mực, thì không thể viết được những câu thơ xa xót như thế này: Vòng tay khóa chặt ngang eo rượu/ Ôm trọn tình nhau tròn số không. Trong tập Vú Đá, Nhất Lâm có những câu thơ rất tinh diệu, mới mẻ: Ngạt ngào mùi đêm vắng... hay Ngày thác lũ/ sông đỏ bầm máu dữ/ Hành kinh cho nhân loại phù sinh (Sông đêm).
Nhất Lâm sống như viết, đầy trực cảm và say mê. Mở cửa sổ tầng ba căn hộ chung cư sau đêm viết khuya, gặp ánh trăng man mác, thế là anh không dừng được đam mê, xách xe đạp xuống ba tầng cầu thang khu cư xá Đống Đa, một mình đạp xe đi chơi trăng đến sáng! Anh đạp xe lang thang như một kẻ mộng du. Đến khi chạm cầu, chạm biển Thuận An mới tỉnh ra, biết mình đang ở xa nhà hơn chục cây số! Bạn chơi của anh là những nhà thơ trẻ ở Huế như Hải Trung, Nguyễn Phước Trung Trường, Lê Huỳnh Lâm, Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Lê Tấn Quỳnh, Đông Hà...
Với cái trực cảm khảng khái của mình, những truyện ngắn cũng như nhiều bài báo chống tiêu cực của Nhất Lâm luôn luôn trực diện, thẳng thừng, làm không ít người chột dạ. Có lần bọn tiêu cực đã thuê côn đồ mang hung khí đến nhà anh de dọa. Có ông quan cấp cả trăm mét vuông đất cho người chấm luận án cho mình để được cái bằng thạc sĩ, Nhất Lâm có ngay tiểu phẩm Thạc sĩ đất in báo. Có lần anh viết bài báo về Tàu Thuận An 06 của tỉnh Thừa Thiên Huế đi buôn lậu ở Trung Quốc về bị bão, đắm ở biển Hải Nam. Bọn buôn lậu đã thuê bọn côn đồ tìm đến nhà đánh anh bị thương. Anh phải lánh ra tận nhà nhà thơ Hải Kỳ ở Đồng Hới để được an toàn. Nhất Lâm luôn tâm niệm: Trăm năm một ván cờ/ Thua được ta thờ ơ... (Trăm năm)!
Nhất Lâm vẫn vậy, sống là viết và viết là sống, chết rồi vẫn muốn có ích cho đời. Ôi, một nhà văn luôn dấn thân đấu tranh vì lẽ công bằng, bởi anh yêu quá cuộc đời này!
Huế, 1/9/2016
N.M
(SHSDB22/09-2016)
VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.
HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).
HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.
ĐẶNG TIẾN (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.
ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.
NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.
NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...
MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.
NGUYỄN QUANG HÀ (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này: Biết rằng trong cõi nhớ thương Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi
MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.
TRẦN THUỲ MAI (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.