Nhất Lâm, chuyện còn kể mãi…

08:59 25/10/2016

NGÔ MINH

Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.

Anh đã rời cõi tạm lúc 5 giờ sáng ngày 30/8/2016. Sáng đó, tôi nghe anh Linh, Giám đốc Công ty In và Quảng cáo Tân Phát, một người hay in sách Nhất Lâm, điện cho tôi tin đau đớn đó. Tôi bị hững hụt bàng hoàng. Mới chiều hôm trước, tôi điện mời anh trưa mai lên nhà giỗ Mạ tôi, vì cuộc giỗ này mười mấy năm nay đều có anh. Anh bảo: “Mình đau lắm. Có lẽ không đi được đâu. Thông cảm nha”. Anh đau tim từ năm 2010, lúc nào anh cũng áp tay phải lên ngực vì bệnh tim hành hạ. Năm 2010, Bệnh viện Trung ương Huế đã lên lịch mổ tim cho anh. Thấy Gạc khuyên: “Mổ tim nguy lắm. Anh mổ là chết. Chịu khó uống thuốc thì có thể sống thêm vài ba năm!” Thế là anh không mổ, tìm mua thuốc uống. Thế mà sống thêm được 6 năm! Vợ anh bảo: “Chiều anh vẫn viết. 4 giờ sáng dậy kêu đau, bảo đưa đi viện”. Taxi đưa lên viện thì tay chân anh đã lạnh rồi. 5 giờ sáng, trái tim tổn thương ấy đã ngừng đập!

Vì nhà văn Nhất Lâm đã hiến xác cho Bệnh viện, nên Linh hỏi tôi: “Anh Lâm hiến xác rồi. Anh Ngô Minh hỏi coi mình có thể vào bệnh viện thắp nhang viếng được không?” Tôi điện hỏi nhà văn - bác sĩ Phạm Nguyên Tường ở Khoa Ung Bướu. Tường “ôi” lên một tiếng rồi bảo tôi: “Tin anh Nhất Lâm mất em mới nghe lần đầu. Sửng sốt quá! Em sẽ hỏi thủ tục, sẽ gọi lại anh sau”. Sau đó thì bác sĩ Tường cho biết gia đình đã bàn với bệnh viện không đồng ý hiến xác nữa. Hai bên cũng đã thỏa thuận làm tang lễ bình thường…”.

Nhất Lâm là một nhà văn trung thực, thẳng thắn, sống quyết liệt, viết quyết liệt. Từ khi nghỉ hưu đến khi rời cõi tạm, trong 25 năm anh đã viết và ấn hành 20 cuốn sách (11 cuốn văn xuôi, 6 tập thơ, trong đó có tiểu thuyết Xa Hà Nội được giải thưởng của Quỹ Phùng Quán năm 2012 và 2 tiểu thuyết khác được giải thưởng của Hội VHNT Thừa Thiên Huế và Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế) và hàng ngàn bài báo. Cuốn cuối cùng của anh là tự truyện SỐNG ĐỂ CHẾT dày 300 trang (Nxb. Thuận Hóa, 2016) là những trang kể lại cuộc đời mình rất sống động. Đọc sách, mới hay anh không phải Sống để chết mà là Sống để tận hiến! Những ngày cuối đời, trong túi áo anh luôn có 3 cái thẻ: thẻ hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, thẻ hiến xác và cái chứng minh thư kỳ lạ. Cái chứng minh nhân dân (CMND) của Nhất Lâm 90 triệu người Việt Nam không ai có: sinh ngày 32/13/1936; nghĩa là ngày không có, tháng không có trong lịch thời gian. Nhưng cái CMND là có thật, anh vẫn sử dụng. Về cái CMND lạ lùng, anh viết: “Thực sự ngày sinh của tôi là 04/12/1936 chứ không phải 32/13/1936. Nguyên do là vào hồi năm 1979 khi tôi còn hoạt động tại vùng biên giới phía Bắc, lúc đó, để đảm bảo bí mật quốc gia, chúng tôi được cấp một CMND riêng. CMND này có tác dụng là nếu chúng tôi bị bắt hoặc bị phát hiện thì (giấy tờ tùy thân) cũng không có hiệu lực pháp lý vì cái sự sai sót cố ý đó. Cái sai đó trở nên hợp lý là vì vậy.

Tự truyện Sống để chết, anh kể về gia đình, làng xóm và tuổi thơ của mình ở làng An Tiêm, Triệu Thành, Triệu Phong, Quảng Trị cho đến khi ra Bắc, đi làm cán bộ địa chất, rồi giải phóng miền Nam trở về gặp mạ. Gia đình anh làm nông, nhưng khá giả, có thể nói là giàu có. Thời chống Pháp đã đóng góp rất nhiều vàng, lúa gạo để nuôi kháng chiến. Một gia đình có truyền thống học hành và yêu nước. Hầu như toàn bộ ông bà, chú bác, cha mẹ, cô dì… đều tham gia kháng chiến. Cả nhà có 3 liệt sĩ và hàng chục người đi cách mạng. Ông nội từng là chánh tổng, tri huyện bị bãi chức vì yêu nước. Bác ruột là Đoàn Lân, là một trong 7 người cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Trị. Ông bị Pháp bắt năm 1929, bị đi đày ở nhà tù Lao Bảo và chết ở đây. Vợ bác Đoàn Lân là bà Lê Thị Trúc, trong tổ chức làm kinh tế cho Đảng với bà Hoàng Thị Ái (Chủ tịch Hội Phụ nữ Việt Nam đầu tiên). Bố nhà văn Nhất Lâm là ông Đoàn Cầu, một nông dân làm ăn giỏi, đóng góp nhiều tiền bạc và sức lực cho cách mạng. Ông là Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã Phong La. Sau đó lên chiến khu Ba Lòng, và hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1952. Mẹ anh tên là Nguyễn Thị Tâm cũng là một phụ nữ có nhiều cống hiến. Bà làm lụng chăm chỉ, cần lao để nuôi chồng con đi kháng chiến, góp tiền, góp lương thực cho cách mạng. Điều may mắn nhất là mẹ sinh ra 5 người con, 3 trai 2 gái, Đoàn Việt Lâm là đầu. Qua hai cuộc kháng chiến cho đến sau năm 1975, 5 người con của mẹ đều từ miền Bắc trở về gặp mẹ trong nỗi vui mừng khôn xiết. Mẹ sống cho đến năm 2002, 90 tuổi.

Đoàn Việt Lâm lúc 15 tuổi, học xong tiểu học Pháp (Primaire) là lên chiến khu Ba Lòng theo bộ đội. Đọc sách, tôi thấy anh có trí nhớ tuyệt vời. Tên đất, tên sông, tên suối, thậm chí tên người, tên những bản làng xa vắng tận Tây Bắc… anh đều nhớ hết. Rồi chuyện đi mót sắn, chuyện ăn đói, mặc rách, chuyện cọp vồ người, chuyện suýt bị lính Pháp bắn chết... Đã 67 năm rồi mà Nhất Lâm thuộc từng ngóc ngách chiến khu Ba Lòng. Ở chiến khu Ba Lòng thuở ấy, Nhất Lâm đã được nghe nghệ sĩ Tân Nhân hát, gặp nhạc sĩ Phạm Duy và những nhà văn nhà thơ trong nhóm văn nghệ Nguồn Hàn như Vĩnh Mai, Lương An, Hồng Chương, Dương Tường… Có lẽ những gặp gỡ đó đã nhen lên và nuôi trong anh ngọn lửa văn chương thơ phú.

Năm 1954, anh tập kết ra Bắc, học ở Trường Cấp 3 Phan Đình Phùng (Đức Thọ, Hà Tĩnh). Sau đó Nhất Lâm ra Hà Nội học ngành địa chất. Ra trường, anh thành cán bộ địa chất đi tìm tài nguyên cho đất nước khắp vùng Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng Ninh, Yên Tử... Đi tìm quặng phải leo đèo lội suốt rất cực nhọc và nguy hiểm, nhưng cũng có những giờ phút vô cùng lãng mạn. Đó là một tình yêu chớp nhoáng với cô gái Thái trắng Bản Lu, Yên Châu tên là Ín. Nàng đẹp. “Cái đẹp của người phụ nữ gọn gàng trong cái áo khít khao để bộ ngực tròn vo sức sống”, “Tôi nhìn nàng. Đôi má hồng lên như chị gà mái đang yêu… Rồi nàng cầm tay tôi tự nhiên kéo xuống cái nệm dày…”. Cuốn tự truyện Sống để chết kết thúc ở chuyến hồi quê ở Am Tiêm của 3 anh em trai từ Hà Nội về sau năm 1975. “Tôi chỉ kêu lên: Mẹ ơi. Mẹ cười nước mắt dàn dụa”. Rồi nhập tỉnh Bình Trị Thiên. Anh chuyển công tác sang giao thông. Làm Chánh Thanh tra Sở Giao thông vận tải Bình Trị Thiên (cũ). Do hoàn cảnh riêng, anh đã xin nghỉ hưu sớm, và bắt đầu viết văn, làm thơ từ đó.

Ở Huế, Quảng Trị, Đồng Hới… nhà văn Nhất Lâm đi đâu ai cũng nhận ra bởi anh thường đi xe đạp, đầu trần với mái tóc bạc trắng chấm vai rất đẹp. Mái tóc bạch kim óng ánh để trần trong nắng mưa của anh cứ bồng bềnh trong gió như một “thương hiệu”. Tiểu thuyết Đồi không tên viết về cuộc chiến đấu của các chiến sĩ bộ đội, du kích vùng cao A Lưới với Mỹ trên Đồi thịt băm - theo cách gọi của lính Mỹ. Anh cho biết để có tiền in sách anh phải vay mượn bạn bè hơn chục triệu đồng. Không biết có thu lại đủ vốn không. Nhưng nhìn cuốn sách dậy mùi mực thơm tôi nghĩ đến mùi sự sống nồng nàn đang phục sinh trên mảnh đất A Lưới khốc liệt một thời. Chỉ riêng viết sách dựng lại cuộc chiến đấu sau 30 năm trời, chứng tỏ tình yêu và trách nhiệm của một người cầm bút thật mãnh liệt.

Nhất Lâm viết báo, làm thơ, viết truyện ngắn, truyện ký sôi sục, tâm huyết. Dường như mấy chục năm làm cán bộ địa chất, làm thanh tra ngành giao thông mẫn cán, nghĩa là làm công việc của một người công chức, anh vẫn chưa coi là làm. Về hưu, anh hì hục viết báo để nuôi mẹ già ở quê và nuôi văn, nuôi thơ và nuôi hồn mình. Anh viết ngày viết đêm như chạy thi với tuổi. Anh trầm ngâm: “Còn sống là còn viết, Ngô Minh ạ! Mình đã bỏ phí nhiều thời gian trai trẻ, tiếc lắm”. Chao ôi, đã hưu trí, đã “thất thập cổ lai hy” rồi vẫn lao vào cầm bút quyết liệt như anh Nhất Lâm, đáng kính nể biết bao nhiêu. Anh nghèo, không có tiền mua xe máy, đạp cái xe đạp cà tàng, không máy vi tính, không email, không Facebook, chỉ viết bằng tay. Anh đạp xe đi khắp chốn như một tay giang hồ bí ẩn. Đi nuôi mẹ già 90 ốm nặng ở Quảng Trị hơn 50 cây số cũng đạp xe. Có lần giữa đường xe đạp bị hỏng xích, không có tiền trả, anh gãi đầu, vuốt vuốt mái tóc bạc, rồi nghĩ ra cách ký tặng người thợ sửa xe tập thơ mới xuất bản. Nhờ có thơ mà người thợ sửa xe vui vẻ cảm ơn và không lấy tiền.

Nghèo, nhưng in sách thì anh không hề tiếc tiền, dù có phải vay mượn. Anh vay bà Phương Chi, vợ nhà thơ Vĩnh Mai ở Hà Nội để trả tiền in tập truyện ngắn Kinh thành bỏ ngỏ, vay bạn bè in tiểu thuyết Đồi không tên... In sách rồi tự đi phát hành. Thu được đủ vốn rồi thì lấy vốn đó in tập sách khác, còn lại bao nhiêu sách tặng bạn bè cho bằng hết. Gặp ai anh cũng tặng sách. Vô Bệnh viện Trung ương Huế thăm người bạn ốm, gặp cô y tá nhiệt tình thế là anh rút sách ra ký tặng. Đi chơi với tôi ở Hồ Than Thở, Đà Lạt, thấy hai cô gái bán cà phê ríu rít, anh rút thơ trong túi ra ký tặng như là thân quen từ lâu lắm…

Nhất Lâm không chỉ viết và in sách của mình mà anh còn sống chết vì bạn hết mực. Hồi nhà thơ Phương Xich Lô mất, Nhất Lâm đã rút hết số tiền trong sổ tiết kiệm 9 triệu đồng dành dụm cho ‘việc hậu sự’ của mình để in tập Nguyễn Văn Phương - Xích lô hành. Một tập sách làm kỷ niệm năm năm ngày mất của nhà thơ trẻ tài hoa mệnh yểu. Anh bảo: “Sách in 600 bản, bán thu đủ vốn rồi, số tiền còn lại sẽ đưa cho gia đình Phương để lo giỗ chạp hàng năm cho nó”. Anh mang Xích lô hành đi phát hành và tặng bạn bè tận Sài Gòn. Một nghĩa cử cao đẹp mà không phải người có tiền nào cũng làm được. Nhà thơ Hải Bằng mất (1998), Nhất Lâm đến nhà ngủ cạnh quan tài nhà thơ để cho ‘anh ấy ấm lòng’. Anh bỏ ra hàng tháng trời ra Hà Nội đọc và chỉnh sửa giúp bà Phương Chi hồi ký về nhà thơ Vĩnh Mai, một nhà thơ cộng sản cương trực người Quảng Trị mà anh rất kính trọng và nể phục. Nhà thơ Trần Hữu Tâm Phương ở Huế mất, Nhất Lâm đi vận động bạn bè quyên góp để làm đám tang vì Tâm Phương nhà nghèo. Ông Lê Văn Hoan, một cán bộ lãnh đạo tỉnh Quảng Trị có lối sống và quan điểm rất gần dân, rất tân tiến; anh bỏ ra cả tháng trời để chấp bút tập hồi ký 350 trang của ông. Năm 2016, anh cùng bạn bè tổ chức bản thảo, quyên góp tiền để in tập Thơ Tôn Phong, nhân giỗ đầu nhà thơ người Huế ở Nha Trang. In xong rồi anh mang sách đi bán. Được mấy triệu đồng anh tìm cách chuyển tiền cho chị Lệ Mỹ vợ nhà thơ Tôn Phong. Chị Lệ Mỹ điện ra khóc, nói: “Cảm ơn Nhất Lâm và anh em Huế. Tôi không có lương hưu. Nhờ số tiền nhuận bút này mà tôi tổ chức được giỗ đầu cho anh Phong!”

Nhất Lâm là một thi sĩ thực thụ. Thơ anh mộc mạc, nhưng cái chất lãng tử, cái chất thi sĩ ngang tàng thì thật đậm: Ly dày ly cạn đêm nhòa nhạt/ Áo mới em choàng nhuốm bâng khuâng... (Suối đêm); Giang hồ tôi uống bao quán vắng/ Nước mắt nhòe mưa về bến sông (Mưa). Thơ Nhất Lâm là thứ thơ chiêm cảm, thơ chắt từ chính cuộc đời mình, nên nặng lòng trắc ẩn. Không ngất ngưởng, ngang tàng, không yêu thương cuộc đời hết mực, thì không thể viết được những câu thơ xa xót như thế này: Vòng tay khóa chặt ngang eo rượu/ Ôm trọn tình nhau tròn số không. Trong tập Vú Đá, Nhất Lâm có những câu thơ rất tinh diệu, mới mẻ: Ngạt ngào mùi đêm vắng... hay Ngày thác lũ/ sông đỏ bầm máu dữ/ Hành kinh cho nhân loại phù sinh (Sông đêm).

Nhất Lâm sống như viết, đầy trực cảm và say mê. Mở cửa sổ tầng ba căn hộ chung cư sau đêm viết khuya, gặp ánh trăng man mác, thế là anh không dừng được đam mê, xách xe đạp xuống ba tầng cầu thang khu cư xá Đống Đa, một mình đạp xe đi chơi trăng đến sáng! Anh đạp xe lang thang như một kẻ mộng du. Đến khi chạm cầu, chạm biển Thuận An mới tỉnh ra, biết mình đang ở xa nhà hơn chục cây số! Bạn chơi của anh là những nhà thơ trẻ ở Huế như Hải Trung, Nguyễn Phước Trung Trường, Lê Huỳnh Lâm, Phạm Nguyên Tường, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Lê Tấn Quỳnh, Đông Hà...

Với cái trực cảm khảng khái của mình, những truyện ngắn cũng như nhiều bài báo chống tiêu cực của Nhất Lâm luôn luôn trực diện, thẳng thừng, làm không ít người chột dạ. Có lần bọn tiêu cực đã thuê côn đồ mang hung khí đến nhà anh de dọa. Có ông quan cấp cả trăm mét vuông đất cho người chấm luận án cho mình để được cái bằng thạc sĩ, Nhất Lâm có ngay tiểu phẩm Thạc sĩ đất in báo. Có lần anh viết bài báo về Tàu Thuận An 06 của tỉnh Thừa Thiên Huế đi buôn lậu ở Trung Quốc về bị bão, đắm ở biển Hải Nam. Bọn buôn lậu đã thuê bọn côn đồ tìm đến nhà đánh anh bị thương. Anh phải lánh ra tận nhà nhà thơ Hải Kỳ ở Đồng Hới để được an toàn. Nhất Lâm luôn tâm niệm: Trăm năm một ván cờ/ Thua được ta thờ ơ... (Trăm năm)!

Nhất Lâm vẫn vậy, sống là viết và viết là sống, chết rồi vẫn muốn có ích cho đời. Ôi, một nhà văn luôn dấn thân đấu tranh vì lẽ công bằng, bởi anh yêu quá cuộc đời này!

Huế, 1/9/2016
N.M
(SHSDB22/09-2016)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.