Nhà văn Tô Hoài: Trang văn ám ảnh về những cuộc đời

14:31 01/06/2020

Trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Tô Hoài giữ một vị trí đặc biệt.

Cảnh trong phim “Vợ chồng A Phủ” được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Tô Hoài.

Hơn 60 năm cầm bút, gần 200 đầu sách lưu lại cho đời, con số ấy đủ để người ta mến phục sức sáng tạo bền bỉ, hiếm có của một tài năng trọn đời tận hiến cho văn chương. “Vợ chồng A Phủ”, câu chuyện nhói đau về số phận người dân lao động vùng cao Tây Bắc xa xôi mấy mươi năm về trước vẫn luôn ám ảnh người đọc.

 Từ bóng tối khổ đau

“Một truyện ngắn hay vừa là chứng tích của một thời, vừa hiện thân của một chân lí giản dị của mọi thời” (Nguyễn Kiên). Chứng tích về một thời đau thương dưới sự đè nén của bọn phong kiến chúa đất vùng cao trước Cách mạng tháng Tám năm 1945 được Tô Hoài ghi lại trong những trang văn thống thiết kể về cuộc đời tủi cực của Mị và A Phủ. Cô gái trẻ yêu đời, chàng trai khỏe mạnh yêu chuộng tự do vùi chôn đời mình trong muôn nghìn cay đắng của phận người nô lệ. Quả là những bất công, ngang trái giữa cuộc đời. Số phận đắng cay, khuất chìm trong bóng tối của Mị khởi đầu từ đêm xuân hứa hẹn. 

“Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp quơ tay lên... Một bàn tay dắt Mị bước ra”. Đó không phải bàn tay yêu thương Mị thao thức đợi chờ, ước mong hạnh phúc. Bàn tay ấy dắt Mị đi từ phương trời tự do đến chốn địa ngục trần gian tù hãm cuộc đời mình. “Sáng hôm sau, Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lí Pá Tra. Họ nhốt Mị vào buồng”. Khổ đau, nước mắt khởi đầu từ đây. “Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”. Mị khóc cho thanh xuân chưa nở vội tàn, ước mong làm nương giả nợ thay cha chỉ còn trong hoài vọng xa xôi.

Làm dâu gạt nợ nhà giàu, cuộc đời Mị chông chênh nước mắt. Cô gái trẻ yêu đời tha thiết “uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo” dường như đã chết, tâm hồn nguội lạnh bởi khổ đau với vẻ “mặt buồn rười rượi”. “Cô Mị về làm dâu nhà Pá Tra đã mấy năm. Từ năm nào, cô không nhớ... Lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Kiếp sống nô lệ, lầm lũi như con rùa nơi xó cửa đã lấy đi của Mị tất cả. Ý thức về thời gian, lẽ sống bị vùi lấp, tâm hồn như hóa đá, chai sần vì khổ đau, tủi nhục. 

Mị đang sống mà như đã chết. Sống lắt lay như một kiểu tồn tại không hơn. Phận rùa bé mọn chìm nghỉm trong căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Nhói đau cho phận đàn bà! Cường quyền, thần quyền áp bức, đè nén khiến con người ta vùi chôn cuộc đời mình trong bóng tối, cam chịu, nhẫn nhục. Thể xác đớn đau, tâm hồn nguội lạnh. Bông hoa rừng ngát hương héo úa, lụi tàn nơi địa ngục trần gian. Xót xa cho một kiếp hồng nhan. Cuộc đời khổ của Mị mang dáng dấp của số phận người phụ nữ ngày xưa bạc mệnh, truân chuyên “phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”.

Cuộc đời Mị khổ, song chí ít cô đã xóa sạch cho mẹ cha món nợ ngày nào. A Phủ, chàng trai tự do chỉ bởi đánh con quan bỗng nhiên thành nô lệ. Một trăm đồng bạc trắng, mấy câu “lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ” đã biến cuộc đời tự do thành kẻ đi ở trừ nợ, làm con trâu, con ngựa nhà quan. Ngang trái, đầy rẫy bất công. Biết sao đây phận con sâu cái kiến. Đốt rừng, cày nương, cuốc nương, săn bò tót, bẫy hổ... A Phủ phải làm trả nợ nhà quan. Ấy vậy mà, kết cục bị bắt trói đứng vào một cây cột trong góc nhà đợi chết, thế thôi. Một cuộc đời của thân phận nô lệ dưới bàn tay lũ chúa đất bạo tàn thật khổ.

Viết về những cuộc đời trong bóng tối khổ đau, ngòi bút Tô Hoài ghi lại chứng tích của một thời đã qua. Sứ mệnh người cầm bút “viết văn là quá trình đấu tranh để nói ra sự thật” đã được hoàn thành trọn vẹn. Ẩn sau những trang viết chân thực về những cảnh đời khốn khổ ấy là niềm thương, niềm đau và cả sự căm phẫn tột cùng với bè lũ ác nhân. Chúng đọa đầy, vùi dập người ta trong ê chề, nhục nhã, biến người ta sống chẳng khác nào đã chết, chết khô, chết héo tâm hồn.

 

Nhà văn Tô Hoài.

Vùng lên tự giải phóng

Thổn thức cùng những cuộc đời khổ đau trong bóng tối, Tô Hoài đâu chỉ chan chứa một niềm thương, nhà văn dường như còn tìm thấy chất thơ vời vợi tỏa ra từ những tâm hồn ngỡ như đã chết. Như hòn than vùi sâu dưới lớp tàn tro, tâm hồn hóa đá bỗng hồi sinh mãnh liệt. Khát vọng sống, lòng yêu đời và xa hơn là ý thức phản kháng nhen lên giữa tận cùng cay đắng. Người đọc mến yêu Mị, cô gái Mèo nơi rẻo cao xa xôi cũng bởi ở con người cô tiềm tàng một sức sống âm thầm, bền bỉ mà mãnh liệt vô cùng. Sức sống ấy sẽ bùng lên trong những hoàn cảnh diệu kì.

Đừng tưởng “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Xuân về Hồng Ngài vạn vật sinh sôi, những chiếc váy hoa đem ra phơi trên mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ. Tiếng sáo, giai điệu mùa xuân vang lên giữa núi rừng lay tỉnh tâm hồn bấy lâu nguội lạnh của Mị. Nhà văn rất dụng công khi miêu tả thanh âm diệu kì này. Từ xa vọng lại gần, ngoại cảnh trở thành tâm cảnh. “Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi”, gần thêm chút nữa, “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng, tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường...”. Tiếng sáo vang lên, tâm hồn khổ hồi sinh trở lại. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bổi hổi. Mị ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Chắc hẳn phải lâu lắm, Mị chẳng buồn hát. Vui đâu mà hát, có ai hát khi lòng quặn nỗi đau, nước mắt uất nghẹn vào trong.

Ấy vậy mà, giờ đây trong đêm xuân Hồng Ngài, “Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm ngày trước. Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Thời khắc thiêng liêng đánh dấu sự bừng tỉnh của tâm hồn sau bao tháng ngày hóa đá. Mị ý thức về giá trị và hơn hết là nỗi đau của cuộc đời mình. Lạ thay, Mị mong muốn tìm đến cái chết “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa. Nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra”. Có lẽ, khi ý thức về thân phận trỗi dậy, nỗi đau thêm thấm thía nỗi đau, Mị muốn chết để tự giải thoát khỏi khổ nhục, đắng cay. Sức sống tiềm tàng vươn lên mạnh mẽ, sau đó cả thúng dây đay cột chặt, mái tóc bị A Sử quấn ngược lên, thân xác đau nhức nhưng tâm hồn Mị vẫn bồng bềnh theo tiếng sáo, theo những đám chơi, tâm hồn yêu đời đang hòa nhịp cùng giai điệu mùa xuân.

Đêm xuân Hồng Ngài qua đi chóng vánh, song khoảnh khắc ngắn ngủi ấy trở thành bước đệm cho đêm đông Mị quật sức vùng lên. Ý thức phản kháng, khát vọng giải thoát vùng lên mãnh liệt nhất khi Mị rút con dao nhỏ, cắt đứt dây mây giải cứu A Phủ và cắt luôn sợi dây vô hình trói chặt đời mình. Tài năng, tấm lòng Tô Hoài gửi trọn trong trang văn hay bậc nhất của cả thiên truyện.

Dược chất nào lay tỉnh tâm hồn Mị, làm đổi thay một trái tim thản nhiên, vô cảm, thờ ơ, can đảm cứu người và cả cứu mình? “Dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen lại” của A Phủ trở thành chất xúc tác đặc biệt. Giọt nước mắt yếu đuối của chàng trai dám vung sức đánh con quan, bẫy hổ ngày nào nhen lên sức mạnh của phái yếu. Giọt nước mắt cay cực, bất lực, tuyệt vọng của con người đã xua tan sợ hãi, thắp lửa yêu thương, giúp Mị đủ can đảm để hành động, dứt khoát, dũng cảm.

Khởi đầu là thương người, sau đó là thương mình, Mị nhận thức tội ác kẻ thù, “chúng nó thật độc ác”. Vượt qua nỗi sợ hãi, Mị vùng lên phá củi, sổ lồng giải cứu người, giải thoát cho mình. Con giun xéo lắm phải quằn, Mị không chỉ quằn nát mà còn mạnh dạn bước đi tìm đến tự do. Ở lại sẽ chịu chết, bước đi dù trời tối lắm nhưng cơ hội sống vẫn còn. “Mị đứng lặng trong bóng tối. Rồi Mị vụt chạy ra. Mị vẫn băng đi”. Hành động ấy đưa Mị tìm đến chân trời tự do, nên duyên chồng vợ cùng A Phủ, cùng đánh Pháp bảo vệ quê hương.

Đêm mùa đông Mị cứu A Phủ, hành động tuy tự phát mà hiển hiện sức sống mãnh liệt, sức sống ấy âm thầm chảy mãi khôn nguôi trong một tâm hồn khổ. Đó là bước ngoặt thay đổi cuộc đời. Từ đây, bóng tối bị đẩy lùi, ánh sáng nhen lên, hạnh phúc ươm hình giữa muôn cay nghìn đắng. Đó là hành động phản kháng quyết liệt của một cuộc đời khổ không cam chịu, buông xuôi. Sức sống tiềm tàng của Mị chưa bao giờ tắt hẳn dù cho liên tiếp bị dập vùi trong bóng tối thương đau.

Tài năng tấm lòng nhà văn

“Vợ chồng A Phủ” chắc hẳn là áng văn để đời vang danh tên tuổi Tô Hoài trên văn đàn dân tộc. Truyện ngắn kết đọng, phát sáng tài năng văn chương của cây bút duyên nợ với mảnh đất miền Tây Bắc. Mấy mươi năm qua rồi, tìm hiểu thiên truyện, người đọc phục tài phân tích, miêu tả tinh tế diễn biến đầy mâu thuẫn của nội tâm nhân vật. Ngòi bút tả cảnh, tả người của ông mang đến cho mỗi người hiểu biết về hương sắc lạ kì của núi rừng Tây Bắc. Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế đậm màu sắc và phong vị dân tộc, vừa tạo hình vừa giàu chất thơ. Câu chuyện về Mị, A Phủ bộc lộ tài năng nghệ thuật truyện ngắn bậc thầy của Tô Hoài.

Văn chương là câu chuyện của tấm lòng, dù cho trình độ nghệ thuật có kì tài, lạ hóa bao nhiêu thì tấm lòng muôn năm không bao giờ cũ. Đằm sâu trong mỗi trang viết về những cuộc đời từ bóng tối khổ đau vùng lên tự giải phóng là ân tình người nghệ sĩ. Đau những nỗi đau của người bao nhiêu, Tô Hoài căm phẫn, tố cáo mãnh liệt những kẻ đọa đầy người ta trong đau khổ bấy nhiêu. Đâu chỉ có vậy, trái tim nhân đạo của ông khám phá, ngợi ca nét đẹp đáng quý tỏa ra từ tâm hồn người lao động. Trong bóng tối họ vẫn khát khao đi tìm ánh sáng, trong thương đau vẫn vùng dậy vươn lên bởi sức sống và tinh thần phản kháng quyết liệt. Đặc biệt, ngòi bút nhà văn đã mở ra con đường đến với cuộc đời mới cho những phận người lao khổ.

“Nghệ thuật thì dài, cuộc đời lại ngắn”, nhiều khi người nghệ sĩ sáng tạo đã trở thành thiên cổ nhưng tác phẩm họ để lại vẫn tỏa rộng, vang xa khắp chốn muôn nơi. Kể từ khi Tô Hoài kết duyên cùng Tây Bắc, mảnh đất để nhớ để thương và cho ra đời câu chuyện về Mị, A Phủ đến nay đã ngót bảy mươi năm. Ấy vậy mà, đọc trang văn ông viết, trong ta vẫn ám ảnh khôn nguôi áng văn về phận người trong bóng tối khổ đau vùng dậy vươn lên giải cứu cuộc đời mình. Có áp bức, tất yếu có đấu tranh, tức nước ắt vỡ bờ. Có lẽ, văn phẩm xúc động này luôn cần cho hôm qua, hôm nay và cả mai sau.

Theo Nguyễn Văn Luyện (Giáo viên Trường THPT Hậu Lộc 4 – Thanh Hóa) - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên  toàn quốc.

  • Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…

  • 1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

  • Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.

  • Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.

  • Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.

  • Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).

  • Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.

  • Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.

  • Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.

  • Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.

  • Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".

  • Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.

  • hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?

  • Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.

  • Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.

  • Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.

  • Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

  • Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.