Cho dù được biểu đạt bằng thể loại gì, từ tản văn, truyện ngắn hay du khảo, thì người đọc vẫn nhận ra ở Nguyễn Trương Quý một tấm lòng thiết tha với Hà Nội. Anh vừa ra mắt cuốn sách thứ 8, du khảo Một thời Hà Nội hát (NXB Trẻ ấn hành), cũng nằm trong mạch nguồn đó.
Được dung hòa giữa văn chương và rất nhiều tư liệu quý giá, cuốn sách là một công trình nghiên cứu thú vị và hấp dẫn cho những ai quan tâm đến Hà Nội giai đoạn bản lề trước và sau năm 1954.
* Nhà văn NGUYỄN TRƯƠNG QUÝ: Đúng là có một sự liên quan giữa 2 cuốn sách. Cuốn sách trước là một cuộc tổng quan về hình thái, hiện tượng khi có rất nhiều bài hát lấy Hà Nội làm trung tâm, làm đối tượng nghệ thuật, giống như một cuộc kể chuyện về Hà Nội bằng ca từ. Đến cuốn này, như một câu trả lời phức tạp hơn, thông qua một câu chuyện, một hoàn cảnh lịch sử của giai đoạn trước và sau năm 1954, là giai đoạn bản lề của thành phố.
Trong bối cảnh đó, tôi muốn đi tìm câu trả lời cho các câu hỏi: Liệu cảm hứng lãng mạn được giữ gìn, phát triển ra sao? Cơ chế nào để xây dựng nên câu chuyện này, biến nó thành một huyền thoại, làm nên một câu chuyện về Hà Nội mà bây giờ gần như là một bảo chứng cho giá trị lãng mạn của Hà Nội? Trong khi những hình thái thuộc địa, những khung cảnh, kiến trúc, con người hay phong tục đã thay đổi rồi thì người ta vẫn nhìn vào đây giống như một di sản phi vật thể, một bảo tàng ký ức về vẻ đẹp xưa cũ của một Hà Nội mà người ta truyền tụng. Và cuốn sách ra đời xuất phát từ đó.
* Nhạc sĩ Đoàn Chuẩn sinh ra ở Hải Phòng. Vậy, âm nhạc và con người Đoàn Chuẩn tiêu biểu như thế nào cho con người và vùng đất Hà Nội?
* Câu chuyện có nhiều nhân vật nhưng tôi chọn nhân vật chính là Đoàn Chuẩn với nhiều bài hát, rạp Đại Đồng, hay cuộc đời sáng tác nghệ thuật, chuyện tình cảm của Đoàn Chuẩn làm trung tâm. Vì ở ông, vô tình hội tụ tất cả đặc điểm của giai đoạn đó, khi ông là người cuối cùng của giai đoạn tân nhạc ở miền Bắc. Và những hoạt động của ông cũng chứng kiến những thay đổi của đất nước.
Đương nhiên, chọn Đoàn Chuẩn vì cuộc đời ông thỏa mãn được những dữ kiện đặt ra. Đoàn Chuẩn tuy không phải là người sinh ra ở Hà Nội nhưng ông lên Hà Nội học từ lúc nhỏ, rồi lấy vợ Hà Nội. Cuộc sống vật chất và năm tháng hoạt động sôi nổi nhất, kể cả những thăng trầm của ông cũng diễn ra tại đây. Quan trọng nhất là những bài hát, những giai điệu ấy, câu chuyện ấy đi vào vốn văn hóa đại chúng Hà Nội. Rất nhiều thế hệ người Hà Nội đã coi những điều đó là sản phẩm của địa phương. Vậy nên, hoàn toàn có thể xem những câu chuyện đó là của Hà Nội.
* Như vậy, anh không gặp khó khăn gì trong quá trình thực hiện cuốn sách này, dù là người “sinh sau đẻ muộn”?
* Có một số khó khăn, như các văn bản đó rơi vào đúng giai đoạn chuyển đổi và bị lắng xuống một lớp bụi nên tôi cũng phải gạt đi rất nhiều mới tìm được những câu chuyện chính xác. Ngoài ra, vì đây là những bài hát tình cảm, mang tính sở hữu cá nhân giai đoạn rất riêng tư của con người, đi kèm rất nhiều ngoại truyện, giai thoại nên làm sai lệch và biến dị nhiều với câu chuyện gốc. Người ta truyền tụng rất nhiều, dù xuất phát từ tình cảm yêu mến, nhưng điều đó vô tình làm bồi đắp nên nhiều chân dung khác nhau.
Tất nhiên, bản thân tôi cũng không thể nào đi đến chân dung Đoàn Chuẩn chính xác 100% vì những người trong cuộc hầu như đã mất cả rồi. Đương nhiên, tôi muốn tránh sự áp đặt lên mọi người, cho rằng đây là chân dung chính xác. Tôi chỉ đưa ra một chân dung nghệ thuật, về giai đoạn nghệ thuật của một đô thị mà tiếng nói của nghệ thuật, của văn hóa được định hình rất đậm đặc.
* Còn câu chuyện, vấn đề gì về Đoàn Chuẩn hay của giai đoạn đó mà anh lấy làm tiếc nuối khi không được thể hiện trên sách?
* Có nhiều thứ tôi mong muốn được đi tới cùng nhưng chưa thể giải quyết được ngay. Chẳng hạn, về mặt khảo sát các giấy tờ, các văn bản riêng tư, tôi chưa được tiếp cận đến nơi đến chốn vì vấn đề gia đình, nhân thân và nhiều nguyên nhân khác nữa mà mọi người chưa sẵn sàng công bố với người khảo sát là tôi.
Tôi nghĩ, nếu như có được nhiều dữ liệu hơn nữa, chính xác hơn nữa thì khả năng nghiên cứu sẽ mở rộng ra thêm. Tuy nhiên, mỗi cuốn sách chỉ giải quyết được một câu hỏi đặt ra thôi, mình không thể làm tất cả công việc gọi là phục dựng hết được.
* Vậy anh có dự tính gì cho một cuốn sách tiếp theo?
* Thực ra trong nghiên cứu, đất rất rộng và có nhiều cách để tiếp cận. Giống như cuốn sách này, nếu câu chuyện chỉ khoanh vùng ở cuộc đời Đoàn Chuẩn thì cuốn sách sẽ đi theo hướng khác. Mình phải đặt trong bối cảnh rất rộng, Đoàn Chuẩn liên quan đến những ý niệm về giới, về định nghĩa thị dân như thế nào. Mình phải khảo sát cái mà người ta gọi là không gian hóa, với những đồ vật, hiện tượng mà tự nó đã là không gian rồi. Như bài hát của Đoàn Chuẩn chẳng hạn, nghe là coi đấy là không gian của Hà Nội. Cũng có thể sau này sẽ có những cuốn khác về chủ đề Hà Nội, vì trong sách, tôi cũng có mở những hướng khác nữa. Đến một lúc nào đó, khi có đủ dữ liệu, tôi sẽ bắt tay vào làm.
* So với những cuốn sách được ra mắt trước đây và ít nhiều tạo được tiếng vang, với Một thời Hà Nội hát có ý nghĩa như thế nào với anh?
* Trước cuốn sách này, tôi có cuốn tản văn Mỗi góc phố một người đang sống, tôi có một vệt bài đi đi lại lại quanh chủ đề người ta hình thành nên ý niệm Hà Nội là quy tâm trong âm nhạc, trong nghệ thuật như thế nào. Nhưng lúc đó tôi chưa có đủ lý thuyết để “gói” lại, thì cuốn này tôi quyết tâm “gói” bằng được. Nó cũng đánh dấu bước trưởng thành về mặt tư duy, về nghiên cứu.
Theo Hồ Sơn - SGGP
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.