Nhà văn chiến trường là những người gánh trên vai 2 sứ mệnh: chiến đấu và viết. Việc viết có thể diễn ra giữa những ngày bom rơi đạn nổ, cũng có thể sau khi đã lặng im tiếng súng. Họ viết như là một sứ mệnh không chỉ cho riêng mình. Nhà văn Đoàn Tuấn là một trong những người như vậy.
Nhà văn Đoàn Tuấn trong một chương trình giao lưu được tổ chức tại TPHCM
1. Từng có rất nhiều nhà văn, nhà thơ bước ra từ 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Gần đây nhất, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, cũng đã hình thành một thế hệ nhà văn, nhà thơ như vậy. Trong số ấy, không thể không nhắc đến Đoàn Tuấn. Ông nuôi giấc mộng trở thành nhà văn từ những ngày gian nguy trên chiến trường Campuchia.
Đoàn Tuấn (sinh năm 1960) tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam khi vừa tròn 18. Lúc đó, anh vừa học xong phổ thông, biết tin mình đỗ vào khoa Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội, thì đồng thời anh nhận giấy gọi tham gia nghĩa vụ quân sự. Giống như bao chàng trai thủ đô hồi đó, Tuấn đi khám sức khỏe, thấy đủ tiêu chuẩn thì sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận.
Đoàn Tuấn kể, anh ở bộ đội 5 năm. Lúc đầu, anh được phân về Trung đội Thông tin, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307; sau đó lại được cử đi phối thuộc. Ròng rã suốt 3 năm, đi phối thuộc chiến đấu hết đơn vị này đến đơn vị khác; khi Tiểu đoàn 8 chuyển lên Anlong Veng (Campuchia), anh lại chuyển về ban tác chiến tiểu đoàn. Ở đây, anh làm nhiệm vụ quản lý quân số cùng một số trang thiết bị của đơn vị. Nhưng hồi đó đơn vị hy sinh nhiều quá, anh lại chuyển sang làm công tác chăm sóc thương binh, tử sĩ.
Bước chân ra chiến trường, nghĩa là những người lính đã chuẩn bị đón nhận cái chết. Bởi vì khi đó, trong túi áo ai cũng đều có một chiếc lọ penicillin, dành ghi tên tuổi, quê quán, năm nhập ngũ, đơn vị, ngày hy sinh, khi mất sẽ chôn cùng để xác nhận danh tính sau này. Giữa chiến trường ác liệt, dưới làn tên mũi đạn, ranh giới sinh - tử trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Biết bao người lính đã hy sinh, theo nhiều cách khác nhau mà không ai ngờ tới.
2. Trong một chương trình giao lưu được tổ chức gần đây tại TPHCM, Đoàn Tuấn thu hút những người tham dự bởi chất giọng vang, sáng, trẻ trung. Nhưng rồi, cũng người đàn ông sở hữu chất giọng hào sảng ấy, lại không cầm được nước mắt khi nói về những cái chết của đồng đội. Đồng đội anh, có người bị lính Pol Pot cắt đầu mang đi đâu không rõ. Lại có người bị chặt ra làm 3 khúc… Những cái chết đau đớn kia đến bây giờ vẫn luôn là nỗi ám ảnh khó nguôi đối với những người như anh Tuấn.
Có một điều được Đoàn Tuấn chia sẻ trong tác phẩm Mùa chinh chiến ấy, khi nói về những đồng đội mất vì sét đánh: “Ai biết họ bị sét đánh lúc nào? Họ đang làm gì? Tâm trạng họ lúc ấy ra sao? Những câu hỏi đó, trong giấy báo tử không ghi. Người ta chỉ ghi mỗi dòng chung chung: “Hy sinh tại mặt trận Tây Nam”. Dòng chữ ráo hoảnh. Chẳng có chút đồng cảm nào với nỗi đau của những người cha, người mẹ, những người vợ, người con… nơi quê nhà”.
Băn khoăn ấy thực ra không chỉ dành riêng cho những người lính không may bị sét đánh, mà là băn khoăn chung cho tất cả những người lính đã ngã xuống. Bởi, như lý lẽ của một người mẹ ở Nha Trang mà anh có lần cùng đồng đội đến nhà báo tử: Khi đi bộ đội, gia đình giao cho quân đội một đứa con tốt. Người mẹ nào chẳng lưu lại trong lòng mình “đứa con tốt”, là những chàng trai mười tám đôi mươi, khỏe mạnh, sức sống căng tràn. Ấy vậy mà những “đứa con tốt” ấy đã không về. Vì sao không về?Không lẽ chỉ vì một từ “chết” lạnh lùng hay sao?
Đó chính là lý do thúc giục Đoàn Tuấn phải viết. Viết cho đồng đội lẫn người thân của đồng đội mình. Bởi vậy mà những tác phẩm như: Những người không gặp nữa, Mùa chinh chiến ấy, Mùa linh cảm lần lượt được ra đời tại NXB Trẻ. Từ các tác phẩm này, những người mẹ, người vợ, thân hữu hay thế hệ sau này hiểu rõ hơn về những cái chết đau đớn nhưng cũng đầy bi tráng. Ngoài ra, còn một lý do nữa, như Đoàn Tuấn chia sẻ: “Tôi viết những cuốn sách để trả lời cho Campuchia và thế giới hiểu rằng, chúng tôi sang Campuchia chiến đấu không phải vì xâm lược mà vì hỗ trợ Campuchia, cứu những người dân Campuchia khỏi họa Pol Pot”.
3. Kết thúc 5 năm ở chiến trường Campuchia, giống như rất nhiều người lính may mắn sống sót, Đoàn Tuấn hăm hở trở về, hiện lên trong đầu là viễn cảnh đoàn tụ, sum vầy với gia đình, người thân, bạn bè, và với cả người yêu. Nhưng cũng giống như những người lính trở về từ chiến trường K, Tuấn không dễ dàng thích nghi với cuộc sống, kể cả những điều thường nhật vốn gắn liền với anh trước đây.
Đoàn Tuấn kể, trở về nhà, anh “quên” đi xe đạp, vì 5 năm ở trong rừng toàn đi bộ, không bao giờ động đến xe đạp. Anh trở về ngôi nhà của mình, có cảm giác ngôi nhà của mình... chật quá. “Bao nhiêu năm ở rừng, không gian rộng quen rồi; quen với nằm võng, về nằm trên giường cứ cảm thấy ngột ngạt. Đi trên đường cứ sợ vấp phải mìn dù đó là đường nhựa. Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng súng chập chờn… Bạn tôi ở ký túc xá, nằm giường sắt, đêm nằm ngủ vẫn nằm mơ thấy lựu đạn ném vào, chân đạp đúng vào thanh sắt giường, lại gãy chân lần nữa, lại phải đi viện. Ám ảnh chiến tranh cực kỳ khủng khiếp”.
Hoàn thành sứ mệnh của người lính, bây giờ Đoàn Tuấn lại tiếp tục theo đuổi sứ mệnh viết văn. Trong anh vẫn luôn thường trực một băn khoăn: Phải tìm cách viết như thế nào để các bạn trẻ đọc được? Anh tâm sự: “Tôi muốn khi viết, cũng là đang kể câu chuyện của thế hệ mình, về con người của thế hệ mình, làm sao ai cũng thấy có mình trong đó. Điều kiện mà tôi đặt ra đầu tiên đó là lòng tin. Lòng tin của độc giả vào nhân vật, vào câu chuyện. Và trong những câu chuyện này phải ánh lên vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp nhân văn. Có như thế thì tôi mới viết”.
Theo Hồ Sơn - SGGP
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.