Nhà văn Đoàn Tuấn: Một lòng với đồng đội

15:09 19/08/2019

Nhà văn chiến trường là những người gánh trên vai 2 sứ mệnh: chiến đấu và viết. Việc viết có thể diễn ra giữa những ngày bom rơi đạn nổ, cũng có thể sau khi đã lặng im tiếng súng. Họ viết như là một sứ mệnh không chỉ cho riêng mình. Nhà văn Đoàn Tuấn là một trong những người như vậy.

Nhà văn Đoàn Tuấn trong một chương trình giao lưu được tổ chức tại TPHCM

1. Từng có rất nhiều nhà văn, nhà thơ bước ra từ 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ. Gần đây nhất, cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, cũng đã hình thành một thế hệ nhà văn, nhà thơ như vậy. Trong số ấy, không thể không nhắc đến Đoàn Tuấn. Ông nuôi giấc mộng trở thành nhà văn từ những ngày gian nguy trên chiến trường Campuchia. 

Đoàn Tuấn (sinh năm 1960) tham gia vào cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam khi vừa tròn 18. Lúc đó, anh vừa học xong phổ thông, biết tin mình đỗ vào khoa Ngữ văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội, thì đồng thời anh nhận giấy gọi tham gia nghĩa vụ quân sự. Giống như bao chàng trai thủ đô hồi đó, Tuấn đi khám sức khỏe, thấy đủ tiêu chuẩn thì sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường ra mặt trận. 

Đoàn Tuấn kể, anh ở bộ đội 5 năm. Lúc đầu, anh được phân về Trung đội Thông tin, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 29, Sư đoàn 307; sau đó lại được cử đi phối thuộc. Ròng rã suốt 3 năm, đi phối thuộc chiến đấu hết đơn vị này đến đơn vị khác; khi Tiểu đoàn 8 chuyển lên Anlong Veng (Campuchia), anh lại chuyển về ban tác chiến tiểu đoàn. Ở đây, anh làm nhiệm vụ quản lý quân số cùng một số trang thiết bị của đơn vị. Nhưng hồi đó đơn vị hy sinh nhiều quá, anh lại chuyển sang làm công tác chăm sóc thương binh, tử sĩ.
Bước chân ra chiến trường, nghĩa là những người lính đã chuẩn bị đón nhận cái chết. Bởi vì khi đó, trong túi áo ai cũng đều có một chiếc lọ penicillin, dành ghi tên tuổi, quê quán, năm nhập ngũ, đơn vị, ngày hy sinh, khi mất sẽ chôn cùng để xác nhận danh tính sau này. Giữa chiến trường ác liệt, dưới làn tên mũi đạn, ranh giới sinh - tử trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Biết bao người lính đã hy sinh, theo nhiều cách khác nhau mà không ai ngờ tới. 

2. Trong một chương trình giao lưu được tổ chức gần đây tại TPHCM, Đoàn Tuấn thu hút những người tham dự bởi chất giọng vang, sáng, trẻ trung. Nhưng rồi, cũng người đàn ông sở hữu chất giọng hào sảng ấy, lại không cầm được nước mắt khi nói về những cái chết của đồng đội. Đồng đội anh, có người bị lính Pol Pot cắt đầu mang đi đâu không rõ. Lại có người bị chặt ra làm 3 khúc… Những cái chết đau đớn kia đến bây giờ vẫn luôn là nỗi ám ảnh khó nguôi đối với những người như anh Tuấn.

Có một điều được Đoàn Tuấn chia sẻ trong tác phẩm Mùa chinh chiến ấy, khi nói về những đồng đội mất vì sét đánh: “Ai biết họ bị sét đánh lúc nào? Họ đang làm gì? Tâm trạng họ lúc ấy ra sao? Những câu hỏi đó, trong giấy báo tử không ghi. Người ta chỉ ghi mỗi dòng chung chung: “Hy sinh tại mặt trận Tây Nam”. Dòng chữ ráo hoảnh. Chẳng có chút đồng cảm nào với nỗi đau của những người cha, người mẹ, những người vợ, người con… nơi quê nhà”. 

Băn khoăn ấy thực ra không chỉ dành riêng cho những người lính không may bị sét đánh, mà là băn khoăn chung cho tất cả những người lính đã ngã xuống. Bởi, như lý lẽ của một người mẹ ở Nha Trang mà anh có lần cùng đồng đội đến nhà báo tử: Khi đi bộ đội, gia đình giao cho quân đội một đứa con tốt. Người mẹ nào chẳng lưu lại trong lòng mình “đứa con tốt”, là những chàng trai mười tám đôi mươi, khỏe mạnh, sức sống căng tràn. Ấy vậy mà những “đứa con tốt” ấy đã không về. Vì sao không về?Không lẽ chỉ vì một từ “chết” lạnh lùng hay sao? 

Đó chính là lý do thúc giục Đoàn Tuấn phải viết. Viết cho đồng đội lẫn người thân của đồng đội mình. Bởi vậy mà những tác phẩm như: Những người không gặp nữa, Mùa chinh chiến ấy, Mùa linh cảm lần lượt được ra đời tại NXB Trẻ. Từ các tác phẩm này, những người mẹ, người vợ, thân hữu hay thế hệ sau này hiểu rõ hơn về những cái chết đau đớn nhưng cũng đầy bi tráng. Ngoài ra, còn một lý do nữa, như Đoàn Tuấn chia sẻ: “Tôi viết những cuốn sách để trả lời cho Campuchia và thế giới hiểu rằng, chúng tôi sang Campuchia chiến đấu không phải vì xâm lược mà vì hỗ trợ Campuchia, cứu những người dân Campuchia khỏi họa Pol Pot”.  

3. Kết thúc 5 năm ở chiến trường Campuchia, giống như rất nhiều người lính may mắn sống sót, Đoàn Tuấn hăm hở trở về, hiện lên trong đầu là viễn cảnh đoàn tụ, sum vầy với gia đình, người thân, bạn bè, và với cả người yêu. Nhưng cũng giống như những người lính trở về từ chiến trường K, Tuấn không dễ dàng thích nghi với cuộc sống, kể cả những điều thường nhật vốn gắn liền với anh trước đây. 

Đoàn Tuấn kể, trở về nhà, anh “quên” đi xe đạp, vì 5 năm ở trong rừng toàn đi bộ, không bao giờ động đến xe đạp. Anh trở về ngôi nhà của mình, có cảm giác ngôi nhà của mình... chật quá. “Bao nhiêu năm ở rừng, không gian rộng quen rồi; quen với nằm võng, về nằm trên giường cứ cảm thấy ngột ngạt. Đi trên đường cứ sợ vấp phải mìn dù đó là đường nhựa. Trong giấc ngủ vẫn nghe tiếng súng chập chờn… Bạn tôi ở ký túc xá, nằm giường sắt, đêm nằm ngủ vẫn nằm mơ thấy lựu đạn ném vào, chân đạp đúng vào thanh sắt giường, lại gãy chân lần nữa, lại phải đi viện. Ám ảnh chiến tranh cực kỳ khủng khiếp”. 

Hoàn thành sứ mệnh của người lính, bây giờ Đoàn Tuấn lại tiếp tục theo đuổi sứ mệnh viết văn. Trong anh vẫn luôn thường trực một băn khoăn: Phải tìm cách viết như thế nào để các bạn trẻ đọc được? Anh tâm sự: “Tôi muốn khi viết, cũng là đang kể câu chuyện của thế hệ mình, về con người của thế hệ mình, làm sao ai cũng thấy có mình trong đó. Điều kiện mà tôi đặt ra đầu tiên đó là lòng tin. Lòng tin của độc giả vào nhân vật, vào câu chuyện. Và trong những câu chuyện này phải ánh lên vẻ đẹp của con người, vẻ đẹp nhân văn. Có như thế thì tôi mới viết”.

Theo Hồ Sơn - SGGP

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • 2 đầu sách Thú lang thang người Hà Nội và Thú ăn chơi người Hà Nội (2 tập) của nhà văn Băng Sơn vừa được Huy Hoàng Bookstore tái bản và ra mắt độc giả. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Tiến cho rằng, đọc lại những cuốn sách này có thể nhận thấy tình yêu rất lớn Băng Sơn dành cho Hà Nội.

  • Trong giới nghiên cứu, cái tên Nguyễn Thị Hậu rất quen thuộc, mọi người còn đặt cho chị cái tên thân thiết là “Hậu khảo cổ”.

  • Tiểu thuyết “L’Étranger” nổi tiếng của nhà văn, triết gia người Pháp Albert Camus đã được độc giả Việt Nam biết tới qua bản dịch “Người xa lạ” từ những năm 60 của thế kỷ trước.

  • Cuốn sách “Cô gái đến từ hôm qua” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vừa được NXB Trẻ ra mắt phiên bản đặc biệt nhân dịp chuẩn bị công chiếu bộ phim cùng tên do đạo diễn Phan Gia Nhật Linh chuyển thể kịch bản và dàn dựng.

  • Sau 12 năm từ lần xuất bản đầu tiên, tiểu thuyết lịch sử “Trần Quốc Toản” của nhà văn Lưu Sơn Minh “tái xuất” với diện mạo mới cả về nội dung lẫn hình thức. Ngày 15/6/2017, nhân dịp “Trần Quốc Toản” phiên bản mới (họa sĩ Thành Phong minh họa, Công ti Cổ phần Văn hóa Đông A và Nxb Văn học liên kết ấn hành) ra mắt bạn đọc, buổi giao lưu với nhà văn Lưu Sơn Minh đã diễn ra tại Nhà sách Cá Chép - 115 Nguyễn Thái Học, Ba Đình, Hà Nội.

  • Đó là tác phẩm mới ra mắt của nhà thơ Nguyễn Duy. Tác phẩm là tập hợp các bài viết vốn đã đăng rải rác trên các báo nhiều năm nay.

  • Nguyễn Quang Thiều tâm sự rằng, suốt cả tuổi thơ của những đứa trẻ thôn quê như ông, có một ngọn gió không bao giờ ngưng thổi, đó là ngọn gió của… đói rét.

  • Nhiều trang viết của tác giả mô tả chuyện quan hệ trai gái với từ ngữ bị nhận xét phản cảm.

  • Tiếp sau tập truyện “Đỉnh khói” quy tụ các truyện ngắn về chiến tranh và đời thường, Nguyễn Thị Kim Hòa tiếp tục diện kiến bạn đọc bằng tập truyện “Con chim phụng cuối cùng”. Tập sách gồm 9 truyện ngắn đều tập trung vào đề tài lịch sử với những nhân vật nữ ám ảnh.

  • Các nhà văn Sài Gòn trước đây đều viết feuilleton (tiểu thuyết đăng báo nhiều kỳ). Đầu tiên là có thu nhập hằng tháng để lo cho nồi cơm. Thứ nữa là để độc giả biết tên tuổi, biết tiểu thuyết của mình. Thứ ba là việc viết feuilleton thúc đẩy nhà văn sáng tác liên tục, đồng thời nắm được thị hiếu, yêu cầu của người đọc đương thời.

  • Tác phẩm "Ta có bi quan không?" của Khải Đơn kể những trải nghiệm khó khăn trên hành trình trưởng thành của người trẻ.

  • Cục trưởng Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông) Chu Văn Hòa cho biết Cục đang lập hồ sơ để ra quyết định thu hồi cuốn sách “Miếng ngon Hà Nội” do Nhà xuất bản Dân trí liên kết với Công ty Trách nhiệm hữu hạn Văn hóa Minh Tân – Nhà sách Minh Thắng phát hành do cuốn sách có sai phạm nghiêm trọng về nội dung.

  • Giọt sầu đa mang là cuốn tiểu thuyết thứ 9 của nhà văn Nguyễn Đình Tú. Điểm đặc biệt ở nhà văn này khiến cho anh bật lên so với các nhà văn cùng thế hệ là sức viết khỏe, viết đa dạng nhiều chủ đề...

  • Ở tuổi 85, nhà văn “lão làng” Nguyễn Xuân Khánh tuyên bố dừng viết, bằng một “dấu chấm” được cho là tác phẩm xuất sắc nhất trong đời văn nghiệp của ông: “Chuyện ngõ nghèo”. Nhưng một mặt, ông lại tiếc, kể chi quỹ thời gian của mình còn nhiều, để có thể... học thêm hai ngoại ngữ nữa.

  • Những cuốn tự truyện viết về tuổi thơ thời chiến tranh, thời bao cấp xuất hiện trên văn đàn không chỉ là những câu chuyện của ký ức tác giả mà còn như những cánh cửa mở ra để độc giả khám phá, tiếp cận với lịch sử ở nhiều góc cạnh khác nhau.

  • “Kim Thiếp vũ môn” là một quyển sách mà cấu trúc, văn phong và bút pháp không theo tiền lệ, nhưng mỗi câu chữ, mỗi chương, mỗi hồi không chỉ là lịch sử, là khoa học, là tiểu thuyết mà còn là tình yêu, là thân phận, là văn chương, thế sự, cuộc đời...

  • Trường ca “Ngụ ngôn của người đãng trí” đã đưa Ngô Kha - một nhà thơ tranh đấu trong phong trào hòa bình và dân tộc ở Huế - trở thành nhà thơ Việt đầu tiên kết hợp được thơ siêu thực và thơ yêu nước.

  • Nhân kỷ niệm 42 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2017), NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật vừa cho ra mắt ấn bản tiếng Anh cuốn tiểu thuyết “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” của nhà báo - nhà văn Trần Mai Hạnh. Theo nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam, sự thật trong cuốn sách là thứ kim cương của văn học tư liệu.

  • Sẽ thật vô duyên nếu viết dài dòng về một cuốn sách kiệm chữ từ tiêu đề trở đi, như trường hợp "Thấy" của Lê Thiết Cương. Nhưng một khi đã “thấy” ở sách nhiều điều cần thấy mà không cất lời thì e rằng kìm nín là một lựa chọn hời hợt.

  • Tính đến năm 2016, nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hà đã sở hữu sáu tập thơ (Gửi con lời ru, Đi ngang chiều gió, Cỏ mặt trời, Người gánh vô hình, Đứt dải yếm, Ngả vào nguyên khôi), một tập tản văn (Lạc trong đêm liêu trai), ba tập truyện ngắn (Đầm ma, Ám ảnh, Con sóng màu hổ phách), một tiểu thuyết (Mưa trong nắng). Đó là những con số biết nói. Đôi lúc tôi cứ vân vi mà nghĩ rằng, người phụ nữ mảnh mai, dịu dàng này lấy đâu ra sức lực để viết được cả ngàn trang sách như thế, nếu không là đam mê chữ nghĩa, văn chương. Hẳn là cái nghiệp!