LÊ THÍ
Trong một bài trả lời phỏng vấn, Đặng Tiến cho biết: “Tôi sinh 1940 tại xã Hòa Tiến, thành phố Đà Nẵng. Năm 1960, vào Sài Gòn học Đại học Văn Khoa, 1963 ra trường, đi dạy tại trường cấp 3 A.Yersin. Từ 1968, tôi về Pháp, học thêm ở Đại học Paris và bắt đầu công việc dạy Pháp văn cho một trường cấp 3 ở Orléans (cách Paris 100km). Cùng với Giáo sư Tạ Trọng Hiệp, tôi lập ra Ban Việt học tại ĐH Paris 7, giảng dạy ở đây từ 1969 - 2005”.
Nhà phê bình Đặng Tiến - Ảnh: TL
Hiện nay Đặng Tiến đang nghỉ hưu tại Orléans (Pháp) và đã nhiều lần về thăm quê. Ông là người có nhiều công trình nghiên cứu phê bình văn học đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa... (trước 1975), Văn Học, Đoàn Kết... (sau 1975). Đã xuất bản Vũ trụ thơ (Giao điểm, 1972), Vũ trụ thơ II (Thư ấn quán, Hoa Kì, 2008), Thơ-Thi pháp và chân dung (Nxb Phụ Nữ, 2009).
Đặng Tiến là nhà phê bình văn học, đặc biệt là phê bình thơ được nhiều người kính trọng và yêu mến. Kính trọng vì tài năng, trí tuệ và yêu mến vì sự vô tư trong sáng không bị chi phối bởi bất cứ một định kiến nào về tư tưởng, quan điểm và học thuật. Có được sự “may mắn” này, có lẽ do ông được đứng ở một “tọa độ” đặc biệt. Đỗ Lai Thúy trong bài Đặng Tiến và những vũ trụ thơ đăng trên Sông Hương viết: “Anh là một nhà phê bình tài tử theo nghĩa phê bình vị phê bình, phê bình vì yêu văn chương nghệ thuật chứ không vì một cái gì khác ngoài văn chương...”.
Quan điểm phê bình thơ của ông rất rõ ràng: “Điều quan trọng với tôi trong các bài viết, không phải là khen chê, mà hiểu bài thơ, may ra hiểu được người làm thơ. Hiểu được nhau, gặp được nhau là quý”. Và ông bày tỏ: “Yêu văn là yêu người. Yêu thơ là yêu mình, cảm thơ, hội ý với thi nhân ta trở thành tri âm với nàng thơ, ta bình đẳng với tác phẩm”.
Do hiểu rằng “Thơ là một ngôn ngữ tự lấy mình làm đối tượng”; và do khả năng nắm bắt được cái “thần” của thi ca (“Câu thơ hay là một thoáng trần gian”), Đặng Tiến luôn cảnh báo: “…mỗi bài thơ là một mô hình phức tạp, cái nhìn khoa học... là cần nhưng chưa đủ để nắm bắt câu thơ...” “Cần có sự tổng hợp nhất quán nhiều ngữ cảnh, nhiều quan hệ do trực giác mách bảo, trong thao tác này tư duy duy lí xem ra bất lực”. Anh cũng đã từng khẳng định: “Những câu chữ bao giờ cũng đặt trên một nền chung: niềm tin vào văn học, lẽ phải, tình người, dân tộc và đất nước”.
Tất cả những cái đó đã làm nên một phong cách bình thơ rất “Đặng Tiến”. Viết về ông, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến cho rằng: “Cách phê bình thơ của Đặng Tiến chung quy lại vẫn là “diễn nghĩa”, “bàn góp”, “tán rộng”... Số phận của những người viết phê bình ở nước ta vẫn là: “diễn…”, “bàn…”, “tán…”. Hơn nhau là ở chỗ biết “diễn…”, biết “bàn…”, biết “tán…”. Không biết “diễn” thì thành “diễn thuyết” dạy tác giả, độc giả, không biết “bàn” thì thành “bàn suông” hoặc “nói leo”, không biết “tán” thì thành “tán phét”. Đặng Tiến có một nền văn hóa, kiến văn rất tốt, thuận cho sự “hoạt ứng” của tác giả trong sự “diễn…, bàn…, tán...”.
![]() |
Nhà phê bình Ðặng Tiến tọa đàm về thơ với văn nghệ sĩ Huế tại Tạp chí Sông Hương |
Nhưng có lẽ, lối phê bình của Đặng Tiến không chỉ dừng lại ở đấy mà còn có cái gì khác hơn, cao hơn, chẳng hạn cái... “chất thơ và ý đạo” mà Nguyễn Đông Nhật đã phát hiện khi viết về ông. Ta thử nghe một đoạn cụ thể về hai câu thơ của Nguyễn Trãi qua cái nhìn của Đặng Tiến để thấy Hoàng Ngọc Hiến vừa... đúng vừa chưa đúng: “Hé cửa đêm chờ hương quế lọt/ Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan. Lệ chữ cổ nghĩa là e ngại, lo sợ. Nội dung câu thơ nói lên tình cảm tế nhị, sâu lắng của Nguyễn Trãi với thiên nhiên, với cuộc sống. Những hình ảnh trong câu thơ giao thoa với nhau tạo một nguồn sáng kỳ diệu. Hương quế, bóng hoa là những thực thể hữu hình đang biến vào cõi vô hình, đang tan ra thành một mùi hương, nhòe thành một cái bóng. […] Bóng hoa, hương quế là môi giới giữa cõi thực và cõi mộng, và cũng là môi giới giữa không gian và thời gian. Cũng như cửa và hiên là không gian môi giới giữa cái trong và cái ngoài, giữa cái riêng và cái chung, giữa con người và vũ trụ, cũng như chữ thềm, chữ ngõ mà thi nhân thời xưa thường chuộng. Hai câu thất ngôn rất cân đối nhờ vị trí của các động từ hé, chờ, lọt, quét, lệ, tan ở đầu, giữa và cuối câu. Hai động từ chờ và lệ gợi ra được những rung động mỏng manh trong thời gian. Chủ từ ẩn là ta: ta chờ, ta lệ, theo nghĩa câu thơ; nhưng cấu trúc văn phạm tạo cảm giác chủ từ là đêm, ngày: đêm chờ, ngày lệ. Nguyễn Trãi, một cách tinh vi đã lồng tình cảm vào thời gian, và vào cả bóng hoa, hương quế. Về âm thanh, một số nguyên âm và phụ âm láy lại tạo thành một nhạc tính ý vị cho câu thơ. Ta khó có thể tưởng tượng là ở lúc tranh tối tranh sáng của thời hừng đông của thi ca Việt Nam mà Nguyễn Trãi đã làm được một câu thơ tân kỳ, nhuần nhuyễn như thế”.
Điểm đặc biệt nhất trong lối bình thơ của Đặng Tiến là câu văn của lời bình luôn mới mẽ và đầy thi tính. Khi nhận định về thơ ông viết: “Nguồn thơ nào không mang ít nhiều nhan sắc của phôi pha nếu bản chất của thơ không phải chính là di tích của phôi pha.” Khi bàn về Truyện Kiều ông viết: “Yêu một tác phẩm nghệ thuật như yêu một người con gái, mỗi lần yêu là khám phá ở họ một trinh tiết mới. Chúng ta yêu Kiều và Kim Trọng yêu Kiều bằng hai mối tình khác nhau”, hoặc “Giá trị của Truyện Kiều không phải là thành tố mà là ánh sáng của nó. Ánh sáng là niềm tin của con người vào ngôn ngữ bên trong vĩ tuyến của định mệnh và bên ngoài kinh tuyến của lịch sử”.
Xin tiếp tục tục trích dẫn để… chứng minh:
- “Vũ trụ thơ của Ức Trai là một áng mây bên suối, một ánh trăng trong khoang thuyền, tiếng chim kêu trong rặng hoa, là giọt sương bên chồi cúc”.
- “Quang Dũng đã đến giữa cuộc đời dịu dàng như một nét hoài nghi, rồi anh ra đi nhẹ nhàng như một chút mơ phai”.
- “Bùi Giáng, rất sớm, đã linh cảm rằng mình suốt đời đứng nguyên ở một tọa độ, xác định bởi một không gian Cố Quận và một thời điểm Nguyên Xuân”.
- “Niềm tin Văn Cao đi từ những giấc mơ thét gào thực tại, là những rạn vỡ đòi lại toàn bích, là chiếc lá gọi trời xanh”.
Vì thế, đọc Đặng Tiến, dù là những người đọc bình thường, thì, phê bình thơ sẽ “còn lại trong kí ức độc giả là những câu thơ hay được trích dẫn, những câu chữ có thi tính của người viết, sự sáng trong vô tư trong chủ quan người viết, phần còn lại là... “phôi pha” (phôi pha trong ngoặc, LT). Và ta sẽ không ngạc nhiên khi nghe nhận xét khác của Nguyễn Đông Nhật: “Phê bình thơ, như thế, đã “vượt biên” chức năng chuyên môn. Để giúp con người đến với nhau nhiều hơn...”.
Chúng ta hy vọng trong lĩnh vực phê bình văn học sẽ có thêm sinh khí mới để phả được hơi ấm vào sinh hoạt văn học của nước ta hiện nay.
L.T
(SH277/3-12)
----------
Tất cả các trích dẫn trên đều lấy từ Thơ-thi pháp và chân dung.
Đặng Nguyệt Anh là một trong rất ít nhà thơ nữ được vinh dự sống và viết ở chiến trường trong những năm kháng chiến chống Mỹ ác liệt.
Trình làng một tập thơ vào thời điểm đương đại luôn tiềm chứa nhiều nguy cơ, và người viết hẳn nhiên phải luôn là một kẻ dấn thân dũng cảm. Nhiều năm qua, phải thú thực là tôi đọc không nhiều thơ, dù bản thân có làm thơ và nhiều người vẫn gọi tôi như một nhà thơ đích thực.
Chúng ta đ ề u đã bi ết Hàn Mặc Tử n ằ m ở nhà thương Qu y Hoà từ 21- 9 -1940 đ ế n 11 - 11 -1940 thì từ tr ầ n. Nhưng có một đi ề u dám chắc ai cũng băn khoăn là su ố t trong 51 ngày đ êm đó, thi sĩ có làm bài thơ nào không?
Công chúng yêu sân khấu cả nước ngưỡng mộ Nghệ sĩ Nhân dân Ngọc Bình với tư cách là một diễn viên tài năng, một đạo diễn gạo cội, một lãnh đạo ngành sân khấu năng nổ, nhưng ít ai biết anh còn là một tác giả sáng tác kịch bản văn học cho nhiều thể loại sân khấu, mà chủ yếu là kịch nói và ca kịch...
Kể từ khi ca khúc “Có một dòng sông” được công bố lần đầu tiên qua loa truyền thanh xã Hương Chữ, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế do chính tác giả cầm guitar thùng trình bày khi vừa viết xong, đến nay vừa tròn 40 năm, nhưng sức lay động của bài ca vẫn còn ngân vang mãi trong nhiều thế hệ người nghe được sinh ra và lớn lên bên dòng sông ấy, bất chấp dòng chảy thời gian.
Mẹ trong mỗi chúng ta là hình ảnh đầy thiêng liêng và diệu kỳ. Mẹ! Có nghĩa là duy nhất/ Một bầu trời/ Một mặt đất/ Một vầng trăng/ Mẹ không sống đủ trăm năm/ Nhưng đã cho con dư dả nụ cười tiếng hát (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên).
(Đọc “Chuyện kể về món hàng quý giá nhất đời” của Jean-Claude Grumberg, Nxb. Văn học 2023 - Dịch giả: Hoàng Anh).
Nhìn thấu mà không nói thấu là đỉnh cao cảnh giới xử thế trí tuệ. Nói theo thuật ngữ Phật học, cái trí nói chung có ba phần hợp thành là trí thức, trí tuệ và trí huệ.
Lê Minh Phong (sinh 1985) vốn cùng quê với Huy Cận, nhưng xa hơn về phía núi. Cả hai đều có một tâm hồn cổ sơ. Nét hoang dã của vùng đất ấy đã tạo ra ngọn Lửa thiêng trong thơ Huy Cận, tạo nên những huyền thoại, cổ tích trong văn xuôi Lê Minh Phong.
(Đọc tập tiểu luận “Ngắn dần đều” của Hoàng Đăng Khoa, Nxb. Đà Nẵng và Book Hunter, 2024)
YẾN THANH
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
Tôi luôn quan niệm rằng, tiểu thuyết là một bản tự thuật chân thật về tâm hồn người nghệ sĩ. Thơ ca có thể là tiếng nói trực tiếp, chân thành của cảm xúc, song những giới hạn của thể loại về nhạc tính, vần điệu, câu từ, khổ thơ, số chữ trong từng câu… luôn ngăn trở tác giả vẽ nên bức chân dung đầy đủ, hoàn thiện về tâm hồn của mình.
VÕ QUỐC VIỆT (Đọc “Đất Việt trời Nam liệt truyện” của Trần Bảo Định)
Tập thơ Vực trắng, Nxb. Hội Nhà văn quý 2/2024 của nhà thơ, nhà báo Lữ Mai gồm 55 bài thơ, được sắp xếp thành 6 phần: “Từ núi”, “Đi lạc”, “Nói bằng gai sắc”, “Trở về chạng vạng”, “Gửi Huế”, “Cánh tàn bừng giấc”.
HỒ THẾ HÀ
Lê Quang Sinh sáng tác thơ và trở thành nhà thơ được độc giả cả nước yêu quý và đón nhận nồng nhiệt. Nhưng ít ai biết Lê Quang Sinh là nhà phê bình thơ có uy tín với mỹ cảm tiếp nhận bất ngờ qua từng trang viết đồng sáng tạo tài hoa của anh.
PHONG LÊ
Hải Triều, đó là một tên tuổi quan trọng trong sinh hoạt văn chương - học thuật thời kỳ 1930 - 1945. Ông vừa giống vừa khác với thế hệ những đồng nghiệp cùng thời, nếu xét trên phạm vi các mối quan tâm về học thuật.
TRẦN HOÀNG
HỒ THẾ HÀ
Võ Mạnh Lập là nhà văn chuyên viết ký (essai/ essey) với thế mạnh sở trường nghiêng về ký sự, truyện ký, bút ký, hồi ký, phóng sự, ghi chép…
NHẬT CHIÊU
(Chiyo-ni: The relief offered by haiku)
Có một nghệ thuật cứu chữa, cứu thoát chúng ta trong cuộc sống bản thân trong tình trạng thương tổn, trong tâm lý và tâm linh, đó là thực tập viết thơ và đọc thơ.