Người đàn bà mặc chiếc váy cũ(*)

15:07 10/08/2009
NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

Trang phục của người Ê Đê - Ảnh: cuocsongviet.com.vn

Ở Đắc Lắc, thi thoảng bước ra đường, tôi gặp những phụ nữ Ê Đê mặc những chiếc yêng đen. Người thì ngồi sau chồng lái vút qua, người thì đi bên nhau thong dong trên phố chợ. Đấy là những chiếc yêng đẹp có hoa văn viền ống. Ám ảnh nhất vẫn là người đàn bà cụt chân chống nạng mặc chiếc yêng đen bạc thếch, lưng mang gùi đựng đầy những thứ lượm được gọi là chai bao. Gặp hoài thành quen, chưa chuyện trò nhưng ánh mắt và miệng cười chào của bà khiến tôi vui vui, pha chút chạnh lòng. Đêm về tôi lại lục giở Mưa gió Ay ray.

Mưa gió Ay ray
ám ảnh tôi là: Người đàn bà mặc chiếc váy cũ.

                        Nàng gieo hồng nhan lơ lửng đáy hồ
                        Ru giọng hát i u trong rừng nứa.

Đôi khi đọc thơ chớ rạch ròi bằng mắt, chớ tách bạch nghĩa từ. Hồn thơ như hồn người, nó thăng trầm xô đẩy, cuốn hút ta vào cõi mê cung phận người. Có những thân phận

                        đêm
                        tựa cửa
                        chơ vơ
                        túm váy
                        gọi chồng!

Rồi ngày mai:

                       Nàng kéo yêng lên ngang đầu gối
để:                  bắt con cua càng về nấu canh d’giam.

nuôi chồng nuôi con.

Thế hệ sau lớn lên mong sao sẽ không còn thấy :

                        Nàng kéo yêng lên ngang bụng
                        Cuộc đời như chia thành hai phần bằng nhau
                        Nửa ru con
                        Nửa chiều chồng

Cái bình đẳng còn đâu đó rất chậm chạp đành:

                        Kéo yêng lên trùm hai đầu vú
                        để xung quanh đất trời
                                                đâu cũng màu tiền sử
                                                đâu cũng ngỡ hồng hoang

Và: Khi cả làng buôn cuốn vào cơn lốc lửa hội : Gấu váy rách tả tơi cũng lấy mà trùm bóng đêm - trùm kín đầu cho nguôi nỗi buồn.

Dẫu cho:           Có người đàn ông Ê Đê
                        Ngậm đing hắt cả đời
                        ......................................
                        lên rẫy vác xà gạc đi trước
                        về buồn gùi bắp đi sau.
                                               
(Ở Ban Mê)

Chăm chỉ thế chứ hơn nữa cũng không làm Mười ngón chân Âu Cơ vất vả bớt nhọc nhằn. Làm sao cái gùi phải gùi mình mà đi. Hướng về phía trước có bàn tay bé thơ vẫy như lá non gọi nắng. Và người đàn bà mặc chiếc váy mới hay cũ chỉ còn mang ý nghĩa vật lý, không liên quan đến phận người. Không còn:

                        Kéo lên tụt xuống nhọc nhằn quẩn quanh

Bài thơ Người đàn bà mặc chiếc váy cũ như một thông điệp buồn, cứa vào lòng người đọc. Lớp cháu con bước ra từ Người đàn bà mặc chiếc váy cũ khi đọc nó chắc chắn sẽ biết tiến lên, tiến lên vượt khỏi thông điệp buồn.

Rồi sẽ có người, như mộng du, làm người sau cuối đến; những chiếc váy có hoa văn, viền óng ả, ấp iu bàn chân mềm mại bước cầu thang, chín bậc yêu thương nối mãi nhà dài.

Đi mãi theo Người đàn bà mặc chiếc váy cũ, tôi chưa và sẽ không nhắc đến tên ai; chỉ nhớ người đàn ông viết ra nó có dáng đi lúc cúc thâm trầm, len lỏi giữa tâm người. Người ấy thở bằng hơi thở của chim rừng, nói bằng tiếng nói của ngàn sâu.

29.8.2002
N.T.T
(184/06-04)

-------------------------
(*) Tên một bài thơ dài trong tập thơ Mưa gió Ay Ray của Văn Thảnh, do Hội Văn nghệ Đắc Lắc xuất bản.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐẶNG TIẾN    

    Đầu đề này mượn nguyên một câu thơ Nguyễn Đình Thi, thích nghi cho một bài báo Xuân lấy hạnh phúc làm đối tượng.

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • NGUYỄN HIỆP

    Dù muốn dù không thì hình thức được lựa chọn là đối tượng của nhà văn. Vậy các nhà văn “khó đọc” của ba miền Bắc, Trung, Nam chọn hình thức nào để xác lập lối viết?

  • LƯƠNG THÌN

    Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

  • VƯƠNG TRỌNG

    Thật khó xác định chính xác thời gian Nguyễn Du ở Phú Xuân, nhưng trước khi ra làm quan dưới triều Gia Long, Nguyễn Du chỉ đến Phú Xuân một lần vào năm 1793, khi nhà thơ vào thăm người anh là Nguyễn Nễ đang coi văn thư ở Cơ mật viện, điều này chúng ta biết được từ bài thơ của Nguyễn Nễ nhan đề “Tống Tố Như đệ tự Phú Xuân kinh Bắc thành hoàn” (Tiễn em trai Tố Như từ Phú Xuân trở về Bắc).

  • NHỤY NGUYÊN  

    Con người khá trầm tĩnh Lê Huỳnh Lâm không thuộc típ quan hệ rộng. Những ai đến với anh và anh tìm đến (dẫu chỉ thông qua tác phẩm) rồi in đậm dấu ấn phần nhiều lớn tuổi; là một sự thận trọng nhất định.

  • LÊ THỊ BÍCH HỒNG

    Với ý thức đi tìm cái mới, cái đẹp, hơn 30 năm qua, Hứa Vĩnh Sước - Y Phương lặng lẽ thử nghiệm, không ngừng lao động sáng tạo, miệt mài làm “phu chữ” để ngoài một tập kịch, bảy tập thơ, ba tập tản văn, anh đã bổ sung vào văn nghiệp của mình hai trường ca đầy ấn tượng, đó là Chín tháng (1998) và Đò trăng (2009).

  • THÁI KIM LAN

    Thường khi đọc một tác phẩm, người đọc có thói quen đọc nó qua lăng kính định kiến của chính mình, như khi tôi cầm tập thơ Ký ức hoa cẩm chướng đỏ của Phan Lệ Dung và lướt qua tựa đề.
     

  • HOÀI NAM

    Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong số những nhà thơ lớn, lớn nhất, của lịch sử văn học dân tộc Việt Nam. Đó là điều không cần phải bàn cãi.

  • ĐỖ LAI THÚY   

    Trước khi tầng lớp trí thức Tây học bản địa hình thành vào đầu những năm 30 thế kỷ trước, thì đã có nhiều thanh niên Việt Nam sang Pháp du học.

  • TRẦN NHUẬN MINH   

    Truyện Kiều, bản thánh kinh của tâm hồn tôi. Tôi đã nói câu ấy, khi nhà thơ, nhà phê bình văn học Canada Nguyễn Đức Tùng, hỏi tôi đã chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất tác phẩm nào của nhà thơ nào, trong toàn bộ sáng tác hơn 50 năm cầm bút của tôi, in trong tập sách Đối thoại văn chương (Nxb. Tri Thức, 2012).

  • YẾN THANH   

    “vùi vào tro kỷ niệm tàn phai
    ngọn lửa phù du mách bảo
    vui buồn tương hợp cùng đau”

                     (Hồ Thế Hà)

  • Sự hưởng ứng của công chúng thời bấy giờ đối với Cô Tư Hồng* của Đào Trinh Nhất, bất chấp những giai thoại xung quanh cô chủ yếu được thêu dệt nên bởi những định kiến đạo đức có phần khắc nghiệt, cho thấy sự chuyển biến rất nhanh trong nhận thức của đại chúng, hệ quy chiếu của đạo đức truyền thống, cho dù được bảo đảm bởi những bậc danh nho, đã không còn gây áp lực đối với tầng lớp thị dân mới.

  • NGÔ THẢO

    Việc lùi dần thời gian Đại hội, và chuẩn bị cho nó là sự xuất hiện hàng loạt bài phê bình lý luận của khá nhiều cây bút xây dựng sự nghiệp trên cảm hứng thường trực cảnh giác với mọi tác phẩm mới, một lần nữa lại đầy tự tin bộc lộ tinh thần cảnh giác của họ, bất chấp công cuộc đổi mới có phạm vi toàn cầu đã tràn vào đất nước ta, đang làm cho lớp trẻ mất dần đi niềm hào hứng theo dõi Đại hội.

  • Tiểu thuyết "Sống mòn" và tập truyện ngắn "Đôi mắt" được xuất bản trở lại nhân kỷ niệm 100 năm sinh của nhà văn (1915 - 2015).

  • NGÔ ĐÌNH HẢI

    Tôi gọi đó là nợ. Món nợ của hòn sỏi nhỏ Triệu Từ Truyền, trót mang trên người giọt nước mắt ta bà của văn chương.

  • NGÔ MINH

    Nhà thơ Mai Văn Hoan vừa cho ra mắt tập thơ mới Quân vương &Thiếp (Nxb. Thuận Hóa, 6/2015). Đây là tập “thơ đối đáp” giữa hai người đồng tác giả Mai Văn Hoan - Lãng Du.

  • DƯƠNG HOÀNG HẠNH NGUYÊN

    Nhà văn Khương Nhung tên thật là Lu Jiamin. Cùng với sự ra đời của Tôtem sói, tên tuổi ông đã được cả văn đàn thế giới chú ý.

  • NGUYỄN HIỆP

    Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.

  • Hà Nội lầm than của Trọng Lang đương nhiên khác với Hà Nội băm sáu phố phường của Thạch Lam. Sự khác biệt ấy không mang lại một vị trí văn học sử đáng kể cho Trọng Lang trong hệ thống sách giáo khoa, giáo trình văn chương khi đề cập đến các cây bút phóng sự có thành tựu giai đoạn 1930 – 1945. Dường như người ta đã phớt lờ Trọng Lang và vì thế, trong trí nhớ và sự tìm đọc của công chúng hiện nay, Trọng Lang khá mờ nhạt.